Archive for Tháng Chín, 2011

THỜI KỲ “CÔNG AN TRỊ” ĐÃ CHÍNH THỨC BẮT ĐẦU (Vũ Đông Hà)

Tháng Chín 30, 2011

 

Thời kỳ “Công An Trị” đã CHÍNH THỨC bắt đầu

Vũ Đông Hà

Ngày 30 tháng 9 năm 2011

http://danlambaovn.blogspot.com/2011/09/thoi-ky-cong-tri-chinh-thuc-bat-au.html?utm_source=BP_recent

 

Kể từ ngày thành lập nước “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” – ngồi trên đầu – “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc”, guồng máy công an là phương tiện cai trị của đảng. Quan hệ hữu cơ gắn bó giữa sự tồn tại của đảng và bộ phận công an đã lên tới đỉnh điểm với khẩu hiệu “còn Đảng còn mình” . Tuy nhiên, đến cuối tháng 9 năm 2011, khi ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng giao cho Bộ công an soạn thảo luật biểu tình thì có thể kết luận rằng: thời kỳ công an trị mới CHÍNH THỨC bắt đầu tại Việt Nam.

 

Hiến pháp hiện hành do chính đảng CSVN làm ra và áp đặt lên 90 triệu người dân Việt Nam quy định: Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp (điều 83), là bộ phận làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (điều 84).

 

Việc ông Nguyễn Tấn Dũng, người đứng đầu của lực lượng Hành pháp, giao cho Bộ công an soạn luật biểu tình chỉ ra sự đúng đắn trong câu nói được truyền miệng bất hủ: “luật là ta, ta là luật” đã chính thức trở thành hiện thực.

 

Công an đã trở thành kẻ vừa viết luật vừa thi hành luật.

 

Không cần phải viết lại tình trạng công an đàn áp những người biểu tình yêu nước trong thời gian vừa qua. Cũng không cần phải phân tích khi công an soạn luật thì luật biểu tình sẽ là luật cản trở / giới hạn / cấm biểu tình và dùng nghị định pháp luật để ngồi lên đầu hiến pháp, đánh đổ hoặc trói buộc những lý luận về quyền biểu tình đã được dư luận quần chúng đưa ra trong thời gian qua.

 

Điều cần phải bàn, phải đặt câu hỏi là tại sao ông Nguyễn Tấn Dũng lại giao cho Công an vai trò soạn luật biểu tình?

 

Chắc hẳn ông Dũng, một người leo được tới chức thủ tướng không thể không biết đây là một hành động mở đường cho những chỉ trích. Tuy nhiên ông không đề nghị Quốc hội soạn luật biểu tình mà giao cho Bộ Công an.

 

Ông Nguyễn Tấn Dũng không tin tưởng Quốc hội sẽ soạn thảo luật biểu tình theo đúng ý của ông. Bởi bài học Đường sắt cao tốc và giai đoạn đầu tứ bề thọ địch khi Vinashin vỡ nợ vẫn chưa quên. Ông Dũng biết rõ sự sụp đổ của mọi thể chế và những gì xảy ra ở Tunisia, Ai Cập, Lybia mới đây đều là kết quả của những cuộc biểu tình quần chúng mà chính phủ không còn kiểm soát được. Sự tồn vong của một thể chế nằm ở khả năng kiểm soát và ngăn chận biểu tình.

 

Luật biểu tình do đó là bộ luật quan trọng nhất, ảnh hưởng đến sự sống còn của guồng máy cai trị do ông Dũng khuynh loát ngày hôm nay. 12 cuộc biểu tình xuống đường chống Trung Quốc cho thấy mặc dù công an có ngăn chận và kiểm soát được nhưng vẫn còn nhiều mầm mống đe dọa và vẫn có xác xuất bùng nổ vì vẫn còn một số “khoảng trống” về “luật” nhằm giải thích những hành động ngăn cấm biểu tình. Vì vậy ông Dũng đề nghị phải có luật biểu tình và luật đó đương nhiên phải “đứng” về phía ông ta. Muốn “đứng” về phía ông ta, không gì tốt hơn là giao cho bộ phận đã và đang đàn áp những cuộc biểu tình yêu nước.

 

Ông Dũng cũng có thể đề nghị cho một số thành viên quốc hội trung thành với ông để soạn luật biểu tình và tránh tai tiếng nhưng ông đã không làm chuyện đó. Giao cho công an vừa thể hiện tính ngạo mạn, thánh đố dư luận và tự tin rằng ông đã thu tóm được quyền lực tuyệt đối; nhưng quan trọng hơn, giao cho công an là một món quà, một thông điệp gửi đến bộ phận này: công an sẽ là bộ phận được ưu ái và từ đó sẽ là bộ phận trung thành nhất với chính phủ của Nguyễn Tấn Dũng.

 

Vậy là: Thời k công an trị đã chính thức bắt đầu. Với tập đoàn tư bản đỏ đứng đằng sau Nguyễn Tấn Dũng vì tất cả dự án to lớn nằm trong tay và quyền hạn của người đứng đầu chính phủ, với sự gắn bó chặt chẽ mang tính sống còn với Trung Quốc khi tới 80% dự án lớn do Trung Quốc chủ thầu, và với phe cánh đàn em là những người nắm vị trí quan trọng trong Bộ Công an như Lê Hồng Anh, Trần Đại Quang đãđược nâng cấp trong vai trò cai trị mới, ông Nguyễn Tấn Dũng đã trở thành một nhàđộc tài nguy hiểm và tồi tệ nhất trong lịch sử của đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Vũ Đông Hà (danlambao)

 

.

.

.

CHUYỆN CÁI NHÀ & CÁI ẤM (Tưởng Năng Tiến)

Tháng Chín 30, 2011

Chuyện Cái Nhà & Cái Ấm

Tưởng Năng Tiến

Fri, 09/30/2011 – 10:16

http://www.rfavietnam.com/blog/4352

 

Đi xa về, dáng chừng vẫn còn mệt nhưng bác Nguyễn Quang Thiều(vẫn) rề rà kể chuyện:

Ngày đầu tiên đến Mỹ, chúng tôi ở tạm trong ngôi nhà của một gia đình Mỹ đang đi nghỉ cuối tuần. Một người bạn của tôi lần đâu đến Mỹ đã không thể hiểu vì sao một ngôi nhà đẹp như thế, nhiều đồ đạc như thế mà không khóa cửa. Tôi đã giải thích nhưng người bạn ấy vẫn băn khoăn mãi đến gần hết chuyến đi. Trong cái đêm đầu tiên ấy, khi người bạn đi ngủ bèn mang theo cả chiếc túi sách đựng hộ chiếu và một ít tiền lên giường vì sợ đang đêm kẻ trộm mò vào nhà ăn cắp. Tôi hiểu tâm trạng ấy. Nỗi ám ảnh về những chuyện mất mát ở khách sạn hay trong chính nhà mình đã theo đuổi bạn tôi không rời.”

Trong những ngày cuối cùng ở Mỹ, một người bạn nhờ con trai tôi mua giúp một cái ipad2 qua mạng. Một chiều đi chơi về, tôi thấy chiếc ipad2 được đóng gói cẩn thận để trên bậc cầu thang trước cửa nhà sát ngay vỉa hè khu phố. Cho dù đã bắt đầu hiểu một phần nào đó nước Mỹ nhưng bạn tôi vẫn rất bị “sốc”. Chiếc Ipad2 được đóng gói để một nơi rất dễ nhìn thấy và chỉ cách lối đi bộ một hai bước chân mà thôi. Đấy là một khu phố vắng vẻ gần như nhà nào biết nhà ấy. Nếu ai đó muốn lấy cái ipad2 kia thì chẳng khó khăn gì, chỉ cần bước ba bước và nhặt lên. Tất cả quá dễ dàng và an toàn. Nhưng không ai lấy chiếc ipad2 đó. Không ai lấy bất kỳ những gì mà những người vận chuyển hàng hóa để trước cửa nhà của khách hàng.”“Người già đi qua không lấy. Người trẻ đi qua không lấy. Những người làm công việc vệ sinh môi trường đi qua cũng không lấy. Và có lẽ những người vô gia cư đi qua cũng không lấy.”

Lối sống ấy không phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh sống nghèo khó hay thiếu thốn…Đó là lối sống của văn hóa, luật pháp và lòng tự trọng. Đương nhiên không phải tất cả những người Mỹ sống như vậy. Nhưng cách sống ấy là cách sống của đại đa số người Mỹ...”

Lần đầu tiên đến Mỹ cách đây 19 năm, tôi thực sự ngạc nhiên vì những ngôi nhà ở Mỹ không đóng khóa cửa. Trong mỗi ngôi nhà của họ có biết bao thứ đắt tiền. Nhưng không mấy ai lọt vào nhà người khác để lấy cắp. Có nhiều lý do. Nhưng lý do cơ bản nhất là ý thức làm người của họ cùng với sự trợ giúp cho ý thức sống ấy là luật pháp và cách quản lý xã hội....”

 

Nguyễn Quang Thiều – tranh Nguyễn Hữu Khoa

http://www.rfavietnam.com/files/nguyen%20quang%20thieu.jpg

 

 

Hết chuyện Mỹ, bác Thiều bắt qua chuyện Nhật:

Trong chuyến đi này, khi quá cảnh ở sân bay Narita, Tokyo, tôi đã phải mở cái thùng giấy của mình cho an ninh cửa khẩu Nhật khi họ soi thấy có một số bật lửa ga trong đó. Sau khi kiểm tra xong, họ đã tự tay dán băng dinh chiếc thùng giấy của tôi một cách cẩn thận như chính họ đang dán chiếc thùng của họ vậy.”

 

Chuyện lạ đường xa của bác Nguyễn Quang Thiều quả là thú vị nên đã xuất hiện trên mọi trang net, bất kể là lề trái hay lề phải. Độc giả phản hồi, bình luận rôm rả quá xá.

 

J.B Nguyễn Hữu Vinh

http://www.rfavietnam.com/files/vinh4001.jpg

 

Sự kiện này, dường như, có làm cho bác Nguyễn Hữu Vinh hơi… sốt ruột! Bởi vậy, dù mấy lúc gần đây chả đi được đến đâu (ngày nào cũng chỉ loanh quanh trên mấy con đường quen thuộc của phố phường Hà Nội) bác Nguyễn Hữu Vinh vẫn cứ nhất định cũng (phải) có chuyện làm quà:

Mấy tuần liền ở Hà Nội không có biểu tình, nói theo ngôn ngữ Hà Nội mới, thì nắng vàng rực rỡ bên bờ hồ Hoàn Kiếm và Hà Nội, Thành phố vì hòa bình luôn bình an.Sáng nay, 18/9 cũng như mọi sáng Chủ nhật trước, tôi lại đến bờ hồ ngắm nghía cảnh quan xem có gì khác nhau ở những ngày Chủ nhật?

Chủ nhật này không giống cái chủ nhật 21/8, hôm đó quanh khu vực bờ hồ đã có đến 4 sân khấu lớn nhỏ hoạt động từ sớm. Hôm nay thì không, có lẽ các cháu gái mệt vì hôm đó ướt mưa lại do ăn mặc phong phanh sexy nên cảm lạnh chăng? Hay bố mẹ các cháu thấy hình ảnh con gái mình ăn mặc hở hang trước tượng đài tiền nhân là hỗn láo nên đã về nhà dạy bảo lại? Chưa rõ nhưng hôm nay không thấy.

Các góc phố, các ghế đá bờ hồ vẫn đầy công an, cảnh sát, an ninh, dân phòng và xuất hiện thêm nhiều thành phần khác nhau nữa. Ngoài những chiếc áo màu xanh dan trời của thanh niên Cộng sản lại xuất hiện nhiều nơi những chiếc áo màu xanh nõn chuối không biết là của tổ chức nào, có phải là cộng sản không?”

“Dạo quanh bờ hồ và khu vực Đại sứ quán Trung Quốc, lại vẫn công an với công an, xe công an các loại, rào sắt và bình xịt… màn màn lớp lớp, nhóm thì kê ghế ngồi vỉa hè (Không biết có xin phép vì tụ tập đông người chư? Vì lượng chiếm vỉa hè, gây cản trở giao thông này nhiều hơn 5 người theo quy định của nhà nước). Một đám thanh niên cộng sản (thông quá cái áo đang mặc) đang quét vỉa hè công viên trước tượng đài Lenin. Người đi đường ngạc nhiên ngoái lại vì đây là hiện tượng hiếm có.”

“Không chỉ ngồi ngoài hè đường vì chắc không đủ chỗ, công an còn vào hẳn trong công viên ngồi tán chuyện cho đỡ buồn, khổ cho các cụ tập thể dục buổi sáng thôi. Công an ngồi ngắm thế này thì hồn vía đâu mà tập với tành…”

Trước tượng đài vua Lý Thái Tổ, hai ba chiếc xe công an đang đứng đợi ai đó, một chiếc xe vòi rồng đứng ẩn mình bên đường Lê Thạch. Nhóm mấy người tụ lại bên bờ hồ thì lập tức vây quanh là các gương mặt ‘lạ’ – lạ ở đây không phải là từ ‘lạ’ như tàu lạ nhà nước hay dùng, mà lạ ở đây là lạ với những người yêu nước, tuy hai cái lạ đó cũng gần giống nhau về nội dung.

Mấy người quen mặt trong các cuộc biểu tình yêu nước vừa qua đứng một lúc thì giải tán, hai xe công an cũng hết việc để làm, các tụ điểm công an cũng hết việc, dân phòng ngồi ngáp vặt cho hết buổi.”

Trong quán cafe bên cạnh Nhà hát múa rối, thấy mấy phụ nữ đang ngồi có Phương Bích và Bích Hằng, lập tức các bàn bên cạnh được tấp đầy bằng những chiếc áo công an xanh lè. Không biết những bàn đó có thu được tiền hay không? Nếu thu được, hôm nay chắc phải cảm ơn những người yêu nước vì bán hàng đột ngột đông khách.”

“Vòng qua bên kia bờ hồ, văn phòng báo Hà Nội mới vẫn còn treo cờ Việt Nam. Khoảng hơn 10 h, nhận được điện thoại mời lên 102 Trấn Vũ là một quán cafe ven hồ, yên tĩnh và thoáng, một người đi biểu tình yêu nước mời anh em đến để nói lời cảm ơn vì vừa qua anh đến thăm những người biểu tình yêu nước bị bắt về đồn, thì anh lại bị bắt và giam 5 ngày vì tội gây rối trật tự công cộng do ai đó tưởng tượng ra.”

“Điều đáng nói là quá trình đó, bố anh mất và mọi người đến thăm viếng làm anh cảm động và hôm nay anh mời mọi người đến để nói lời cảm ơn. Ở đây, trước đến nay khi đông khách thì vẫn lấy vỉa hè làm nơi ngồi uống. Nhưng ngồi trên vỉa hè chưa được ấm chỗ thì bỗng đâu xe công an từ hai phía ập đến, dẹp trật tự. Thế rồi nhìn quanh nhung nhúc những người cầm máy quay, máy ảnh chĩa vào anh chị em đang uống cafe. Có điều là họ không dám công khai mà rình và núp như cảnh sát giao thông rình bắt người lưu thông vậy. Mọi người đều hiểu họ là ai và vì sao họ làm thế, tiếc rằng sao họ không làm đàng hoàng mà phải lén lút như thế, một người bật lên một câu chửi thề “Đ.m. sao nó hèn thế không biết”.

“Thế là anh em chia tay ra về…

“Bước chân vào ngõ, chợt một hình ảnh làm tôi giật mình, đó là một cái ấm đung nước bắng bếp than tổ ong của nhà ai đó đã đặt ngay cạnh cửa ra vào, vẫn phải mang theo sợi dây xích khổng lồ, nếu không, cả ấm và nước cùng bốc hơi…”

Hà Nội, 18/9/2011

 

cái ấm đung nước bắng bếp than tổ ong của nhà ai đó đã đặt ngay cạnh cửa ra vào, vẫn phải mang theo sợi dây xích khổng lồ

http://www.rfavietnam.com/files/Cai%20Am.jpg

Thật là chán mớ đời cho cái bác Nguyễn Hữu Vinh nhà tôi. Chuyện bác kể nghe sao lảng xẹt! Vậy mà cũng bầy đặt “giật mình” làm chi (cho má nó khi) cha nội?

 

Ở Việt Nam người còn bốc hơi ào ào chứ nói chi đến cái ấm nước sôi. Chỉ trong vòng hai tháng, tháng 8 và tháng 9 năm 2011, đã có cả chục công dân Việt Nam cũng đã “bốc hơi” mất tiêu đấy thôi.

 

Ngoài những người được công luận nhắc đến như ông Nông Hùng Anh, ông Nguyễn Văn Mỹ, ông Nguyễn Minh Nhật và bà Tạ Phong Tần, qua bức ”thư ngỏ”(gửi đi vào ngày 2 tháng 9 vừa qua) của thân nhân của các thanh niên, sinh viên Công Giáo, người ta còn được biết thêm rằng hiện nay trong số “15 người bị bắt giữ thì chỉ có 3 người được thả. Còn lại 12 người, đích xác chỉ biết 6 người đang bị giam ở nhà tùThanh Liệt, Hà Nội. Sáu người kia không biết chắc chắn ở đâu và sứckhỏe ra sao.”

 

Biển đảo, núi rừng, tài sản, ngân qũi quốc gia, nhà cửa, đất đai canh tác của hàng triệu lương dân mà còn lần lượt bốc hơi hết ráo thì cái ấm nước (“dù đã đặt ngay cạnh cửa ra vào”) vẫn cứ phải quấn một sợi xích thật to vào rồi khóa lại – cho nó chắc ăn – là chuyện cũng … đúng thôi. Cẩn tắc vô áy náy chớ bộ.

 

Tưởng cũng nên nói thêm là sau khi kể chuyện đường xa, bác Nguyễn Quang Thiều (bỗng) thở dài đánh thượt:

“Khóa cửa nếu xét về mặt cơ học thì chỉ là hành động diễn ra trong mấy phút. Nhưng để đi đến việc không cần khóa cửa thì có lẽ người Việt Nam có ý thức về việc đó cũng phải mất 100 năm nữa mới có thể làm được…”

 

Cứ với cái cơ chế hiện hành thì không phải mất cả trăm năm mà chỉ cần mươi năm nữa thôi người Việt Nam sẽ phải khoá luôn mấy cái ly uống nước, dù đã cất kỹ trong nhà, chứ chả phải chỉ cái ấm không đâu. Cũng với cái chế độ ưu việt hiện tại thì giấc mơ về thế giới đại đồng – nơi mà nhà không cần khoá, mấy cái ipad2 vứt ở ngoài cửa không ai thèm nhặt – chắc phải chờ đến một kiếp (xa xôi) nào khác quá.

 

Tưởng Năng Tiến

tuongnangtien’s blog

.

.

.

HUMAN RIGHTS WATCH KÊU GỌI VIỆT NAM TRẢ TỰ DO CHO CÁC NHÀ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO (RFI, HRW)

Tháng Chín 30, 2011

 

HRW yêu cầu Việt Nam trả tự do cho các nhà hoạt động tôn giáo

Thanh Phương   –   RFI

Thứ sáu 30 Tháng Chín 2011

http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20110930-hrw-yeu-cau-viet-nam-tra-tu-do-cho-cac-nha-hoat-dong-ton-giao

 

Hôm nay, 30/9/2011, tổ chức bảo vệ nhân quyền của Mỹ Human Rights Watch ra thông cáo yêu cầu Việt Nam chấm dứt việc đàn áp các nhà hoạt động tôn giáo và trả tự do cho 15 người vừa bị bắt gần đây. Theo Human Rights Watch, các vụ bắt bớ, chủ yếu nhắm vào các tín đồ Công giáo có quan hệ với Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, là một vết đen nữa về mặt tự do tôn giáo của Việt Nam.

 

Đợt bắt bớ này bắt đầu từ ngày 30/7/2001, với việc công an bắt 3 nhà hoạt động Công giáo tại sân bay Tân Sơn Nhất khi họ vừa từ nước ngoài trở về. Trong 7 tuần tiếp theo, chính quyền đã bắt thêm 12 người. Cho đến thời điểm này, 10 người trong số họ đã bị khởi tố về tội « hoạt động nhằm lật đổ chính quyền », chiếu theo điều 79 bộ Luật Hình sự Việt Nam.

 

Trong số những người đang bị giam, có anh Lê Văn Sơn, tức blogger Paulus Lê Sơn, bị bắt tại Hà Nội một ngày sau vụ xử phúc thẩm tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ ngày 2/8, sự kiện mà anh đã đến tận nơi theo dõi và đã tường thuật trên trang blog của mình. Một blogger nổi tiếng khác là bà Tạ Phong Tần thì bị bắt ngày 5/9 sau khi đăng bài phân tích tính chất tuỳ tiện và trái pháp luật của việc bắt giữ anh Lê Văn Sơn. Người cuối cùng bị bắt là anh Trần Vũ Anh Bình, bị bắt ngày 19/9 ở Sài Gòn và cho tới giờ vẫn chưa biết lý do của vụ bắt giữ này.

 

Theo lời ông Phil Robertson, Phó giám đốc đặc trách châu Á của Human Rights Watch, cho rằng : “Hành đng ca chính quyn đi vi nhng nhà vn đng t do tôn giáo mt cách ôn hòa nói trên là mt ch du khá rõ v tình trng vi phm nhân quyn đang gia tăng Vit Nam”.

 

Trong bản thông cáo, Human Rights Watch cũng đã nhắc lại vụ Linh mục Phạm Trung Thành, Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam, ngày 10/7 vừa qua đã bị cấm xuất cảnh khi ông đến sân bay Tân Sơn Nhất để đi dự một hội nghị tôn giáo ở Singapore, nhưng công an không giải thích lý do vì sao vị linh mục này lại bị xếp vào diện « chưa được xuất cảnh ». Hai ngày sau đó, một lãnh đạo khác của Dòng Chúa Cứu Thế là Linh mục Đinh Hữu Thoại cũng bị cấm xuất cảnh ở cửa khẩu Mộc Bài, Tây Ninh.

 

Tổ chức nhân quyền của Mỹ nhắc lại « tự do đi lại là quyền cơ bản của con người, được ghi rõ trong Hiến pháp Việt Nam và được bảo đảm bằng các công ươc quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam đã tham gia ».

 

————————–

 

Việt Nam: Cần phóng thích các nhà hoạt động tôn giáo ngay lập tức

Human Rights Watch

September 29, 2011

http://www.hrw.org/node/102032

 

Các hành động đàn áp đe dọa tự do tôn giáo

 

The 15 Vietnamese religious activists who were arrested in July, August and September, 2011. Clockwise from upper left: Tran Vu Anh Binh, Ta Phong Tan, Tran Minh Nhat, Thai Van Dung, Ho Van Oanh, Nguyen Van Duyet, Nguyen Xuan Anh, Nong Hung Anh, Le Van Son, Chu Manh Son, Tran Huu Duc, Dau Van Duong, Ho Duc Hoa, Dang Xuan Dieu and Nguyen Van Oai.

All photos © 2011 Thanh Nien Cong giao.

http://www.hrw.org/sites/default/files/imagecache/scale-300x/media/images/photographs/2011_Vietnam_15Arrested.jpg

 

 

Supporters gather for a vigil at Ky Dong Church to pray for the 15 religious advocates, and other prominent activists, who have been arrested, on September 25, 2011.

© 2011 VRNs

http://www.hrw.org/sites/default/files/imagecache/scale-300x/media/images/photographs/2011_Vietnam_KyDongVigil_0.jpg

 

(New York) – Hôm nay, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền tuyên bố chính quyền Việt Nam cần chấm dứt ngay lập tức việc đàn áp các nhà hoạt động tôn giáo và phóng thích 15 người bị bắt vì đã bày tỏ niềm tin của mình. Các vụ bắt bớ, chủ yếu nhằm vào các tín đồ Công giáo Dòng Chúa Cứu thế, là một vết đen nữa trong bảng thành tích vốn đã nhiều vấn đề của Việt Nam về tự do tôn giáo.

 

Đợt bắt bớ này khởi đầu từ ngày 30 tháng Bảy năm 2011, khi công an bắt 3 nhà hoạt động Công giáo tại sân bay Tân Sơn Nhất thành phố Hồ Chí Minh ngay khi họ vừa từ nước ngoài trở về. Trong bảy tuần tiếp theo, chính quyền tiếp tục bắt thêm 12 nhà hoạt động tôn giáo nữa. Đến thời điểm này, 10 người đã bị khởi tố theo điều 79 bộ luật hình sự, tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền, với mức án quy định là từ 5 đến 15 năm tù đối với người “đồng phạm” và 12 năm đến chung thân hoặc tử hình đối với những người được coi là “tổ chức,” hoặc có hành vi “gây hậu quả nghiêm trọng.”

 

“Những vụ bắt bớ mới nhất nói trên thể hiện mối ác cảm của chính quyền Việt Nam đối với những người muốn tự do thực hành tín ngưỡng của mình bên ngoài sự kiểm soát của chính quyền,” ông Phil Robertson, Phó Giám đốc phụ trách châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền phát biểu. “Hành động của chính quyền đối với những người vận động tự do tôn giáo một cách ôn hòa nói trên là một chỉ dấu khá rõ về tình trạng vi phạm nhân quyền đang gia tăng ở Việt Nam.”

 

Nhiều người bị bắt trong hai tháng qua có quan hệ với Nhà thờ Thái Hà ở Hà Nội và Nhà thờ Kỳ Đồng ở Thành phố Hồ Chí Minh, đều thuộc dòng Chúa Cứu thế. Trong sáu tháng vừa qua, cả hai nhà thờ thường xuyên tổ chức các buổi thắp nến cầu nguyện cho sự bình an của các nhà hoạt động đang ở trong tù hoặc trại tạm giam, trong đó có nhà hoạt động pháp lý Ts. Cù Huy Hà Vũ, nhà vận động Hòa Hảo Nguyễn Văn Lía, blogger Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), blogger Phan Thanh Hải (Anhbasg)blogger Phạm Minh Hoàng. Ngày 25 tháng Chín, nhà thờ Kỳ Đồng tổ chức một buổi thắp nến nữa để cầu nguyện cho 15 nhà hoạt động tôn giáo mới bị bắt trong hai tháng gần đây, cùng với các nhà hoạt động nổi tiếng khác. Dòng Chúa Cứu thế, trước đây được biết với tên dòng Chúa Cứu chuộc, là một dòng truyền giáo Công giáo được thành lập ở Italy vào năm 1732, hiện có mặt tại hơn 77 quốc gia trên thế giới.

 

Vụ bắt giữ hai blogger Công giáo có ảnh hưởng, Lê Văn SơnTạ Phong Tần, là điểm kết của chiến dịch sách nhiễu, câu lưu và thẩm vấn của công an đối với cả hai người về việc viết blog. Buổi sáng ngày mồng 2 tháng Tám, ngày xử phúc thẩm Ts. Vũ, Lê Văn Sơn đến khu vực gần Tòa án Nhân dân Tối cao để bày tỏ sự ủng hộ đối với Ts. Vũ, và bị công an theo sát. Sáng ngày hôm sau ông bị công an bắt. Tạ Phong Tần thì bị bắt ngày mồng 5 tháng Chín, sáu ngày sau khi bà đăng bài phân tích tính chất tùy tiện và trái luật của việc bắt giữ Lê Văn Sơn trên blog của mình vào ngày 30 tháng Tám. Tạ Phong Tần đã được trao giải thưởng uy tín Hellman Hammett vào ngày 14 tháng Chín vì đã dũng cảm viết dù liên tục bị đàn áp.

 

Lãnh đạo mục vụ của cả hai nhà thờ cho biết họ bị công an giám sát và sách nhiễu thường xuyên. Ngày mồng 10 tháng Bảy, công an xuất nhập cảnh thành phố Hồ Chí Minh ngăn cấm Linh mục Phạm Trung Thành, lãnh đạo Dòng Chúa Cứu thế Việt Nam, xuất cảnh để dự một hội nghị tôn giáo ở Singapore, tuyên bố lý do rằng ông “thuộc diện chưa được xuất cảnh.” Công an không đưa ra được bất cứ lời giải thích nào về việc tại sao ông lại bị xếp vào diện đó. Hai ngày sau đó, công an xuất nhập cảnh ở cửa khẩu Mộc Bài, Tây Ninh lại ngăn cấm một vị lãnh đạo khác của Dòng Chúa Cứu thế, Linh mục Đinh Hữu Thoại, xuất cảnh. Ngày 19 tháng Bảy, ông Đinh Hữu Thoại nộp đơn kiện trạm kiểm soát cửa khẩu đã vi phạm quyền tự do của mình, nhưng Tòa án  Nhân dân tỉnh Tây Ninh bác đơn kiện đó vào ngày 26 tháng Chín, tuyên bố rằng vấn đề này “không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.”

 

“Tự do đi lại là quyền cơ bản của con người, được tôn vinh trong Hiến pháp Việt Nam và được bảo hộ bằng các công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt Nam đã tham gia ký kết,” ông Roberson nói. “Qua việc ngăn chặn các lãnh đạo Dòng Chúa Cứu thế ra nước ngoài tham dự các sự kiện tôn giáo, chính quyền Việt Nam đã cho thấy, ở Việt Nam, pháp quyền bị coi rẻ đến mức nào.”

 

Vụ bắt bớ gần đây nhất diễn ra vào ngày 19 tháng Chín, khi công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt giam Trần Vũ Anh Bình khi ông vừa về nhà sau khi dự một đám tang ở Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu giúp trong thành phố. Tới giờ chính quyền vẫn chưa thông báo lý do bắt ông.

 

Trong bản báo cáo mới đây về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, Bộ Ngoại giao Hoa kỳ khẳng định, “Tiếp tục có các báo cáo về tình trạng vi phạm tự do tôn giáo ở nước này,” và bổ sung rằng “Không có sự thay đổi về mức độ tôn trọng tự do tôn giáo từ phía chính phủ trong phạm vi thời gian đánh giá của bản báo cáo này.”

 

“Washington cần nhận định công khai rằng Việt Nam thẳng tay đàn áp những người bất đồng chính kiến về tôn giáo, và gây áp lực yêu cầu chính quyền Việt Nam phóng thích tất cả những người bị giam giữ vì đã ôn hòa bày tỏ tiếng gọi của lương tâm mình chứ không phải đường lối của đảng,” ông Robertson nói. “Chính quyền Việt Nam cần ghi nhận rằng tự do tôn giáo không có nghĩa là chỉ được tự do hành xử theo cách đã được chính quyền cho phép trước.”

 

BẢN TIẾNG ANH :

 

Vietnam: Free Religious Activists Immediately

Crackdown Threatening Freedom of Religion

September 30, 2011

http://www.hrw.org/news/2011/09/30/vietnam-free-religious-activists-immediately

 

.

.

.

LUẬN BINH PHÁP TÔN TỬ TRONG NAM TIẾN [1] (Nguyễn Duy Thành)

Tháng Chín 30, 2011

Luận binh pháp tôn tử trong Nam tiến[1]

Nguyễn Duy Thành

12:01:am 29/09/11

http://www.danchimviet.info/archives/43121

 

Lời tác giả: Sự nghiệp chính trị của Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu tuy có ít nhiều tranh luận nhưng chắc chắn, lịch sử sẽ lưu hậu đại công bảo quốc của ông trong sự kiện Hoàng Sa. Bài viết này đã 17 tháng, nhưng các dòng chính luận dưới đây vẫn sát thực với hiện tình chính trị Việt Nam trước chiến lược Hán xâm. Nhân Huý nhật thứ 10 của cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tác giả xin phép đăng tải lại như trọng kính gọi mời lòng ái quốc của con dân xứ Việt. Trân trọng cám ơn toà soạn và giới thiệu cùng bạn đọc.

 

Lịch sử viết về cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu thật nhiều, nếu đem xếp lại thì cao to như Dinh Độc Lập. Nhưng khó tìm ra tấm ảnh nào thấy tay ông đang cầm khẩu súng, mặc dù vị lãnh đạo này cũng từng xuất thân từ giới chiến binh!

Vậy, nay quốc gia mà ông từng có công xây dựng đang bị Hán hóa thì ông đã về thiên quốc. Nhưng tại sao phải cần tiếng súng Nguyễn Văn Thiệu trong tình hình chính trị Việt Nam hiện nay?

 

Những dòng chính luận quốc sự dưới đây bắt nguồn từ trình tự quan sát mối quan hệ Việt-Trung trong vòng 2 năm trở lại trên các mặt chính yếu, thì có nhiều điểm khả hữu được đưa ra để nhận định rằng: Nếu giới đương quyền Việt Nam cứng rắn với Trung Cộng, và kịp thời Đổi Ngược chiến lược trong 2 mặt ngoại giao và quân sự, thì cục diện quốc gia sẽ tạm thời khả quan hơn, trước khi đi tìm một giải pháp chính trị lâu dài và chắc chắn. Nếu không, Việt Nam sẽ rất sớm mất chủ quyền!

Để thấy rõ điểm quan trọng nói trên, xin luận để tường:

 

ĐẠI CƯƠNG TÓM LƯỢC

 

BẮC KINH VÀ TÔN TỬ KẾ TRONG CHIẾN LƯỢC HÁN HÓA VIỆT NAM

Ngày nay, nhân loại cùng nhau đưa cao khẩu hiệu: Thế giới là một mái nhà, nhờ vậy, một số quốc gia yếu nhỏ chuyên lệ thuộc đã nhận được sự tôn trọng và hòa ái bằng những hiệp ước bất tương xâm ra đời.

Nhưng sự may mắn này đã ngoại lệ với Việt Nam. Bởi Trung Hoa không từ bỏ tham vọng mở rộng không gian địa lý về hướng Nam, do đó, sự âu lo hiểm họa ngoại xâm đối với dân Việt được ghi nhớ bằng hai chữ: Muôn Đời.

Tuy nhiên, mục đích xâm chiếm nước Việt thời xưa và nay đều giống nhau, nhưng hình thức thì khác xa. Thay vì năm xưa, Bắc triều phải hao tổn cho đội quân binh hùng tướng mạnh, còn ngày nay con cháu người Trung Hoa thông minh và mưu lược hơn, biết vận dụng tiền tài thặng dư để thực hiện những cơ kế mờ ám nhằm đạt được những mục tiêu bí mật, mà chính lãnh đạo của các quốc gia bị xâm chiếm không lường ra được hậu quả nên đã tiếp tay với kẻ thù, và tự mình phải công khai văn bản chiến thắng của đối thủ. Với chiến thuật xâm lăng bằng trí óc này sẽ tạo nên một sức công phá lâu dài và ghê gớm, có thể hủy diệt một dân tộc!

Hiện trạng Trung Cộng đang ngấm ngầm xâm chiếm Việt Nam cũng là như vậy!

Nhưng để đạt được mức độ xét đoán cao về các chiến thuật và chiến lược của Trung Cộng, thì việc khái luận mọi vấn đề xin dựa vào Binh Pháp Tôn Tử, một binh học truyền thống của tổ tiên người Trung Hoa từng tự hào, và ngày nay con cháu họ vẫn sử dụng để hoạch định quốc sách, và sở dĩ, phải dựa theo tập toàn thư binh pháp này, nghĩa là nói đến căn cơ mưu lược chính trị được đặt lên hàng đầu nhằm hỗ trợ cho động lực quân sự, để xét đoán cùng chứng mình rằng: Giới đương quyền Việt Nam không có khả năng lãnh đạo, không biết nhận định chiến lược của đối phương nên đã “mắc mưu” rồi sợ hãi, trong khi, có chỉ số rất cao để khả tin là vũ lực sẽ không thể xảy ra trong đại cuộc Hán hóa Việt Nam của họ.

Mà tất cả, kế hoạch Nam tiến của Trung Cộng đều bắt đầu từ Kế thứ 15 là: Ám Độ Trần Sương, tức tạm hiểu là (đi con đường không ai để ý), hiểu giản dị là xâm lăng không bằng súng đạn, vì sách lược này vô cùng phù hợp với xu thế hòa bình – toàn cầu hóa hiện nay; thứ là, ít bị phát hiện và kháng cự từ một dân tộc có truyền thống chống ngoại xâm quật cường như Việt Nam

Cũng từ việc lấy Kế thứ 15 làm chủ đạo, phía Trung Cộng đã triển khai bước xâm lăng đầu tiên bằng Kế thứ 8, là: Vô Trung Sinh Hữu, tức (không có mà làm thành có), nghĩa là Kế này họ chiếm được Hoàng Sa. Từ việc Hà Nội im lặng chịu thua đã nói lên Trung Cộng thắng một mưu mẹo nhỏ là “ném đá dò lòng cuội”, nhưng “cuội” đã cúi đầu, thì họ tiến tiếp vào vụ Bauxite Tây Nguyên.

Nay, thêm vụ cho thuê rừng trong 10 tỉnh xen kẽ theo chiều dài địa lý Việt Nam, về sự kiện này, tuy có nhiều phân tích và bình luận gia đề cập, nhưng đã không đào sâu vào quyền của các quốc gia được thuê và ý đồ chiến lược. Trên bề mặt của vấn đề thì cho rằng, có 3 quốc gia là Trung Cộng – Đài Loan và Hồng Kông, nhưng thực ra chỉ là độc chiêu của Trung Cộng.

 

Tại Sao?

 

Vì rằng, hợp đồng cho thuê là 50 năm. Nhưng riêng Hồng Kông đối với Trung Cộng chỉ xếp loại đơn vị gọi là: Đặc Khu, sau khi Anh Quốc trả lại độc lập vào ngày cuối cùng của tháng 12 năm 1997, nhưng được hưởng theo quy chế tự do trong vòng 50 năm, tính từ đó đến nay đã được 13 năm, sau đó phải hồi quy cố quốc, như thế, chiếu theo thời hạn 50 năm cho đến lúc hết hạn hợp đồng, quyền hạn thuê rừng sẽ thuộc về ai?

Riêng Đài Loan, ai xác định sau 50 năm không ngã về quốc mẫu Trung Hoa??? Hoặc, ai khẳng định Trung Cộng không núp dưới tên của các công ty Đài Loan?

Không cần phân tích thêm thì cũng ước tính ra được trong vòng 5-10 năm sau. Việt Nam sẽ biến thành vùng “xôi Việt, đậu Tàu”. Vì tính theo chiến thuật, thì 10 tỉnh cho thuê rừng không theo lối co cụm, mà rải rác phân bố 1 kềm 5 tỉnh lỵ của Việt Nam thì mọi biến động về quân sự và chính trị, đặc biệt là kinh tế đều có thể nằm trong sự khống chế của đối phương.

Như vậy, về lâu dài, Trung Cộng sẽ thắng thêm Kế thứ 16, Kế này cũng là mục đích trọng yếu của chiến lược bắt buộc họ phải thành công cho bằng được! Nhưng nếu Trung Cộng đạt được Kế này thì một tai họa khủng khiếp sẽ đến với Việt Nam, và rất có thể nó sẽ xảy ra! Kế đó là: Phản Khách Vi Chủ, tức (biến chủ nhà thành khách), khi người Tàu từ từ di dân qua đất Việt rồi sinh nở và phát triển, chui sâu leo cao vào cơ cấu lãnh đạo từ hạ tầng lên thượng tầng cơ sở, khi đó quốc hiệu Việt Nam chỉ là cái vỏ.

Tuy nhiên, các điểm vừa nêu chỉ mới trình bày được dã tâm cùng thế lợi đã đạt được của phía Trung Cộng trong lộ trình Nam Tiến hiện nay, nhưng tại sao Bắc Kinh đã không gặp một trở ngại nào?

Loại trừ đi, yếu tố tiêu cực là lãnh đạo Việt Nam bị Trung Cộng “sập bẫy” bằng Mỹ Nhân Kế, hay tham nhũng mua chuộc (vì ngoài sự quan sát của Tác giả) mà chỉ xét đến hướng tích cực (nếu có), thì bảng so sánh cụ thể khách quan dưới đây, diễn tả rất đầy đủ các phương diện trọng yếu của cả 2 quốc gia đang đồng thực hiện trong chiến thuật và chiến lược của mình:

 

SO SÁNH – PHÂN TÍCH CHUNG CHIẾN THUẬT VIỆT – TRUNG

 

Truyền Thông:

Khi đã thắng được một số Kế trong các chiến thuật căn bản, để làm chủ vài nơi trọng yếu như biển-đảo, bauxite Tây Nguyên, thuê đất..vv..vv.. thì lãnh vực truyền thông đang được Bắc Kinh đặt lên hàng đầu. Nhưng Hà Nội đã không quan tâm.

Đó là, kể cả các trang Mạng internet (bán và không chính thức) đều được Trung Cộng sử dụng; trong khi đó, ai cũng biết quốc gia này quản lý gắt gao về kiểm duyệt. Một số bài viết mang tính hiếu chiến của các Blogger, cũng như nội dung của nhiều bài báo được viết bởi một số cấp Tá và Tướng về hưu muốn kiến nghị, tham mưu, đòi hỏi mở cuộc chiến tranh để chiếm Biển Đông và thanh toán Việt Nam trước khi âm mưu với Đông Nam Á.

Nếu bảo là hữu nghị thì tại sao nhà nước Trung Cộng vẫn cố tình cho phép lưu hành lâu dài các nội dung nói trên?

Nhưng điểm cần chú ý là các vụ “tàu lạ” đâm thuyền ngư dân Việt được sắp xếp không theo trình tự liên tục, mà rải rác tháng nào cũng có một hay hai vụ, và thường xảy ra vào ban đêm. Xét theo quan niệm hải hành, dù là một thương thuyền to lớn đến đâu; có khi ngay cả, trong binh chủng Hải quân thì quan niệm về sức mạnh của thần linh thần biển bao giờ cũng tạo cho người ta ý niệm cầu may trên hải trình, huống hồ gì, ý niệm thiêng liêng này sao lại không có trong bản thể vốn nặng tính truyền thống của người dân chài lưới Trung Hoa, để mà có ác tâm gây sự hải hùng với đồng ngư nước Việt!

Nhưng sở dĩ, Trung Cộng phải dàn dựng ra cái kế: Sát Kê Hách Hầu, tức (giết gà cho khỉ sợ), bởi nhiều mục đích. Nhưng cao chiêu nhất của họ là muốn hướng dư luận, nhất là sự chú ý của giới lãnh đạo và thành phần trí thức Việt Nam phải tập trung vào phía Biển Đảo, nhằm làm giãn mỏng sự quan tâm, phản kháng tại Đất liền – nơi chủ yếu là chiến lược lâu dài mà họ cần đến! Vì thực tế, phần Biển Đảo thì Trung Cộng cậy sức mạnh đã cưỡng đoạt rồi!

Trong khi đó, về phía cầm quyền Việt Nam thì bị “mắc bẫy” vì Dương Đông Kích Tây, và cúi đầu thua vì kế: Hư Trương Thanh Thế của Bắc Kinh. Nói khác đi, các nhà lãnh đạo đương thời Việt Nam đã sợ “võ miệng” của Trung Cộng.

 

Quân Sự:

Trung Cộng hiểu rõ yếu tố tâm lý lo sợ chiến tranh của lãnh đạo Việt Nam, nên cố tình khoe khoang đặc tính hùng mạnh về quốc phòng qua nhiều lễ hội, hay tập trận trên biển, nhằm hù dọa và khơi gợi sự chạy đua vũ trang, và kết quả đã có, lãnh đạo Hà Nội cấp tốc ký đơn đặt hàng vũ khí từ Nga, Ấn độ và Pháp. Nhưng Trung Cộng Minh Tri Cố Muội (giả vờ không biết), vì nắm rõ CSVN không đủ ngân sách quốc gia cho cuộc chạy đua bất cân xứng này, dù 5 hay 10 năm sau, mức độ hiện đại hóa quân đội Việt Nam vẫn ở chỉ số bách phân so với đại cường số của Trung Cộng.

Đây là môn võ cũ của Mỹ nhưng chiêu mới của Tàu, được rút ra từ bài học “chiến tranh các vì sao” (Star War) và “Chiến lược phòng thủ lá chắn” (Strategic Defense Innitiative), mà Hoa Kỳ làm ngã quỵ Liên Xô trên võ đài chính trị. Nay Trung Cộng “học lóm” để nhốt kỹ đồng chí đàn em trong cái bẫy sập của mình, và thế cờ đã gài đặt như vậy, thì không cho phép các nhà lãnh đạo Việt Nam dừng cuộc chơi tại đây, mà phải tiếp tục … trong tiếng vỗ tay “trúng kế” của bộ chính trị Bắc Kinh.

 

Kinh Tế:

Vì càng chạy đua vũ trang với Trung Cộng bằng các mặt hàng nặng vốn như Máy bay, Xe tăng, Tàu ngầm, Hỏa lực, thì Việt Nam càng mau kiệt quệ, trong khi tiền thặng dư cũng như ngân sách quốc gia quá ít ỏi. Vậy, khi Việt Nam bị kinh tế suy thoái, lạm phát mậu dịch, và khủng hoảng tài chánh hay chi phí quốc gia bị khiếm khuyết, thì chỗ dựa dễ vay mượn nhất chính là Trung Cộng, vì muốn mượn bao nhiêu cũng được! Nhưng Việt Nam lấy cái gì để thế chấp? Có phải là tài nguyên, đất đai, lãnh hải và khu du lịch..? Sự vay mượn này cũng là điều kiện tốt nhất để Trung Cộng tuồn đổ toàn bộ hàng hóa giả-độc, biến Việt Nam thành cái hố rác khổng lồ, làm lụn bại tê liệt ngành tiểu thủ công nghệ vốn là kế sinh nhai cho 50% dân số của quốc gia.

Điểm chết để sinh biến ra mọi vấn đề là ở đây… Nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam và ban tham mưu đã cạn trí… không nhìn thấy!

 

Ngoại Giao:

Trung Cộng rất uyên thâm để xác định rằng, chỉ có mối quan hệ Việt-Mỹ mới làm họ lo ngại! Sự kiện ngày 30-3-2010, Đại sứ Hoa Kỳ ông Micheal Michalak đã cùng ký kết biên bản Hợp Tác Năng Lượng Hạt Nhân với Việt Nam; tuy biên bản chỉ mang tính Ghi Nhớ, nhưng điểm đáng chú ý là việc ký kết này được thu nhỏ tại Hà Nội, và chỉ 12 ngày trước khi Nguyễn Tấn Dũng đến Mỹ để tham dự vấn đề hạt nhân, nghĩa là cả 2 quốc gia không muốn làm “rùm beng”. Đó là dấu hiệu khá khôn khéo và quan trọng trong bước tiến quan hệ Việt-Mỹ, nếu xét theo chiến lược cho các bước kế tiếp lâu dài!

Nhưng dường như, các nhà hoạch định chính sách của Trung Cộng cũng đã “đánh hơi” được bài toán “nước đôi” của lãnh đạo Việt Nam, nên Trung Cộng nắm chặt con bài vũ khí hạt nhân Bắc Hàn, dù rằng, họ có một phần đồng tình cô lập Iran để lấy lòng Hoa Kỳ và thế giới, qua việc Hồ Cẩm Đào phút cuối quyết định tham dự vào ngày 12-13 tháng 4 năm 2010. Vì chế độ Bắc Hàn tồn tại hay không thì đang còn phụ thuộc quá lớn vào sự viện trợ của Trung Cộng. Cho nên hơn ai hết, nếu người Việt Nam am hiểu về lịch sử cận đại thì có thể suy luận hay hình dung rằng, nếu lãnh đạo Trung Cộng “nói nhỏ một câu” với Hoa Kỳ là:

-“Vấn đề Biển Đông, chúng ta cùng bắt tay để kiếm ăn, còn vấn đề Bắc Hàn thì hãy để chúng tôi lo liệu. Nhưng Hoa Kỳ đừng đi sâu vào chuyện “làm ăn” của chúng tôi tại Việt Nam”!

Vậy, vì vấn đề an ninh nước Mỹ và an ninh Việt Nam, thì Quốc Hội và Tổng Thống Hoa Kỳ chọn gì?

Sự trả lời cho câu hỏi trên đã làm mất đi tác dụng của kế: Tá Thi Hoàn Hồn (mượn xác để hoàn hồn), mà các nhà lãnh đạo Việt Nam đang mượn sức Hoa Kỳ để cân bằng với Trung Cộng, sẽ không như ý hay hy vọng nhiều và sớm như mong đợi! Mà trái lại, nếu không cẩn thận với kế mượn xác này, thì coi chừng “bộ đội cụ Hồ” phải đi lượm xác “đồng chí”, vì Trung Cộng dạy cho bài học thứ 2.

Hay hiểu khác rằng, tăng cường quan hệ mật thiết với Hoa Kỳ là đúng! Nhưng ngay vào lúc này, nếu lãnh đạo Việt Nam đặt hết hy vọng vào họ, thì khác nào chú Bờm nằm mơ chiếc kẹo trong bàn tay của Phú ông đầy tính toán!

Còn lại, những nỗ lực ngoại giao ở khối Asia sẽ hoài công vô ích! Vì điểm quan trọng mà bộ chính trị Hà Nội không nghĩ đến, là chính họ đã tạo ra sự mâu thuẫn trầm trọng, khiến các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia trong khu vực theo dõi và nhận ra. Mâu thuẫn đó là, giới cầm quyền Việt Nam ngấm ngầm tạo liên minh chống đỡ Trung Cộng, kêu gọi quốc tế hóa Biển Đông. Nhưng đồng thời, cũng là chính họ thỏa thuận ký kết những hiệp ước-hợp đồng, để cho Trung Cộng trá hình bành trướng trên Đất Liền qua các vụ Bauxite Tây Nguyên, hay cho thuê rừng đầu nguồn vv…vv…

 

TỔNG KẾT NHẬN ĐỊNH

Căn cứ vào thực tế mà phân tích tỷ mỷ như đã nêu, thì tạm thời kết luận là: Kế hoạch lấn chiếm Việt Nam được Trung Cộng tiến hành theo mô thuật “mưu ma quỷ kế”, và trình tự từng giai đoạn của các chiến thuật này như một Liên Hoàn Kế được ghép lại rồi cấu trúc thành: Chiến lược lâu dài.

Hay có thể hiểu rằng, dùng mưu kế để chiếm đoạt thì dễ dàng hơn, ít binh phí hơn, nhưng sở hữu lâu dài và chắc chắn hơn! Bằng chứng, dù chế độ cộng sản Việt Nam sụp đổ, thay thế bởi thể chế dân chủ thì các văn kiện khế ước hợp đồng vẫn còn hữu lực, và chiến lược vẫn còn thực hiện. Nhưng nếu, chiếm đoạt Việt Nam bằng chiến tranh thì không hữu lý, nếu có, chỉ thỏa đạt trong giai đoạn nhất thời.

Cao thâm của viễn mưu chính là chỗ này!

Trong khi đó, ngay từ ban đầu, giới đương quyền Việt Nam đã không xác định được chiến lược mang tính mưu lược của đối phương, nên không tìm ra phương hướng, khi bị dư luận lên án thì cuống cuồng phản ứng mang tính khôn nhà dại chợ, và càng hấp tấp thì càng vướng vào “lưới bẫy” của Trung Cộng.

Hay luận cách khác để thấy rõ hơn, là bộ máy cầm quyền của CSVN không có triết phu nào tiên kiến được viễn mưu của Trung Cộng, nên dẫn đến phạm phải sai lầm trầm trọng trong nguyên tắc chính trị và quân sự, bởi: Khi chiến thuật sai cùng chiến lược sai thì bao giờ cũng tạo cho đối phương mau thắng lợi, và đưa quốc gia vào vòng đại họa trường tồn dưới đây:

 

ẢNH HƯỞNG VÀ HẬU QUẢ

Cũng từ sai lầm trên, cho thấy tình hình Việt Nam hiện nay đã rất khác so với 1-2 năm trước, là chỉ có vấn đề Biển Đông. Nhưng nay, các nhà lãnh đạo Việt Nam tự đặt chính mình cùng tổ quốc và dân tộc trước 2 mặt trận, nếu cùng xét theo hai phương diện quân sự và chính trị, tức là:

1) Mặt trận Biển-Đảo.

2) Mặt trận Đất Liền.

Vậy, trong 2 mặt trận vừa nêu, thì đã hình dung ra mặt trận nào nên quan tâm và củng cố hơn, trước, ưu tiên?

Nói về sự kiện Biển Đảo, thì việc thiết lập và đệ trình hồ sơ lãnh hải lên Liên Hiệp Quốc là đúng, nên làm, và đã làm rồi! Nhưng nếu xét, mặt nào là có tầm mức quan trọng và khẩn thiết cần bảo vệ nhất hiện nay, thì sự vụ Biển Đảo không nên đặt nặng quá vấn đề, vì nó thuộc về quốc tế!

Hoặc thậm chí là, giới lãnh đạo Hà Nội nên thông minh hiểu rằng, cái Lưỡi Bò mà Trung Cộng tự ý vẽ ra chỉ là tham vọng, chứ bất thể thành hiện thực như cái ao nhà của họ, kể cả trên chiến lược hay pháp lý!

 

Vì sao?

 

Bởi rằng, đây là hải lộ “huyết mạch” của quốc tế, nhất là Hoa Kỳ và các nước đồng minh của siêu cường này, cũng như thế giới, Và ngay cả, xét theo vị trí địa lý bị bịt kín của Trung Cộng, thì 75% lượng dầu thô khí đốt hết sức cần thiết, cùng 70% hàng xuất- nhập cảng của họ đều nhất lộ phải di chuyển qua hải tuyến này. Cho nên, hôm nay hay dài lâu, thì Trung Cộng cũng không muốn sự tranh chấp bằng hải chiến tại vùng “nhạy cảm” đó.

Dẫu bằng, họ muốn độc quyền thì Hoa Kỳ và quốc tế chịu sao?

Hoặc, nếu Việt Nam thắng kiện thì liệu Trung Cộng có làm lễ bàn giao Hoàng Sa-Trường Sa không???

Nói như thế, nhằm nhấn mạnh bằng một lý luận giản dị rằng, Đất Liền – mặt trận thứ 2, tức là căn nhà Việt Nam hình chữ S cũng đang bị người Tàu đe dọa từng ngày. Nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn tiếp tục tham nhũng qua việc thuê-bán nội địa, và không ưu tiên tìm biện pháp bảo vệ mà lại đi lo cái hồ nước sau hè nhà…!

Vậy, vài năm sau, khi dân Tàu tràn ngập xuống chiếm căn nhà quý báu kia, thì 90 triệu người có thể làm “thuyền nhân” bơi ra tỵ nạn ở 2 cái cồn nước sau hè nhà… được sao?

Hiện thực đen tối của quốc gia Việt Nam là như thế đó, ắt rằng, sẽ có nhiều người đặt ra câu hỏi là:

 

Nếu giả định, ngay bây giờ các nhà lãnh đạo Việt Nam có hướng tích cựu nhằm ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng, thì liệu có biện pháp tạm thời nào để chống đỡ, ít ra, là để bảo vệ cho ngư dân được an toàn tính mạng trên lãnh hải Việt Nam???

 

Câu hỏi này khó như lên Trời mà ngay cả sư phụ của Tôn Tử thần tiên sống lại, cũng không tìm được trong 36 Kế do đệ tử viết ra thì có kế nào hay mà vận dụng!

Nhưng có lẽ, đây cũng chính là dấu hỏi mà các nhà lãnh đạo Việt Nam đang loay hoay không tìm ra câu trả trả lời! Vì hơn ai hết, họ sẽ tự nhận ra tham vọng cá nhân đã biến chính mình thành những “con chốt thí” trên bàn cờ chiến lược, mà ngõ sinh lộ để ra hay cửa tử đi vào đều do Trung Cộng nắm chìa khóa!

Cho nên, nhằm giải quyết toàn bộ mọi vấn đề để quốc gia tránh được thảm nạn Hán hóa của Trung Cộng, thì liệu rằng, các nhà lãnh đạo CSVN có đủ bản lĩnh chính trị như cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, để “chế tạo” ra cái Kế thứ 37, mà tạm gọi là kế: Tự Biên Tự Diễn..???

Hay nói thẳng ra là: Nổ súng trước, như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từng hạ lệnh cho Hải quân VNCH trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974.

 

Nhưng!

 

Nổ súng trong hoàn cảnh nào? Nổ súng trên đất liền hay biển đảo thì có lợi? Và, nếu Việt Nam vì TIÊN PHÁT CHẾ NHÂN mà khai hỏa, thì cuộc chiến Việt-Trung có bùng nổ không?

Đặt một loại câu hỏi như vẽ cảnh màn trời chiếu đất sắp hiện ra đối với ai lo sợ chiến tranh, nhất là mấy “ngài” trong bộ chính trị CSVN nghe qua cũng phải toát mồ hôi hột…!

Nhưng không! Rất nhẹ nhàng và êm ái mà có thể bảo quốc an dân! Chính những tiếng súng này sẽ làm thay đổi cho cục diện chính trị Việt Nam.

 

Vì sao giả định trên như một khẳng định?

 

(Còn tiếp)

.

.

.

LUẬN BINH PHÁP TÔN TỬ TRONG NAM TIẾN [2] (Nguyễn Duy Thành)

Tháng Chín 30, 2011

 

Luận binh pháp tôn tử trong Nam tiến [2]

Nguyễn Duy Thành

01:04:am 30/09/11

http://www.danchimviet.info/archives/43182

 

Luận binh pháp tôn tử trong Nam tiến

và phát súng Nguyễn Văn Thiệu… pằng..!

 

(Phần 1)

 

NHẬN XÉT THẾ LỢI VIỆT NAM

Có rất nhiều lý do để xác quyết cho khẳng định trên, nhưng chỉ xin đưa ra các điểm căn bản để xét đoán rằng: Dùng vũ lực với Việt Nam là không có trong kế hoạch dù ngắn hay dài của Trung Cộng, vì là:

 

1) Kinh tế tại quốc nội Trung Cộng đang trong chiều hướng phát triển quá cao, đang thu hút nhiều đại công ty nước ngoài có ký kết hợp đồng tại đây, nhất là Hoa Kỳ và đồng minh của siêu cường này. Trong khi đó, các đại công ty của Trung Cộng cũng đang phát triển lan rộng khắp thế giới. Do đó, Trung Cộng không dại gì lâm chiến để tự mình làm sụp đổ hệ thống chứng khoán đang thu hút nhiều khách hàng trên toàn cầu, cũng như lòng tin của các đối tác thương mại đang và sẽ đầu tư vào quốc gia có sức mãi lực này. Đây chính là thế “triệt buộc” mà điểm đầu tiên bắt Trung Cộng phải nghĩ tới khi đặt vấn đề chiến tranh với quốc gia láng giềng!

 

2) Tương đương về quyền lợi kinh tế nói trên, nếu Trung Cộng giao chiến với Việt Nam, dù là một phát súng bắn trả lại thì xem như mối ngoại giao bị gãy đổ, kéo theo các hợp đồng kinh tế mà phần lớn các kế hoạch khai thác quặng mỏ – thuê rừng trong ý đồ Hán Hóa của Trung Cộng cũng phải trì trệ dài hạn, có khi phải chấm dứt. Hay, lý lẽ cách khác, là kế hoạch Nam tiến của họ bị đổ vỡ. Từ đó có thể hiểu rằng, phát súng khai hỏa cảnh cáo và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam hôm nay, hoàn toàn khác xa với tiếng súng chủ động của Trung Cộng vào sáng ngày 17-2-1979, mà lịch sử cận đại của họ đặt tên cho cuộc chiến đó là Đối Việt Tự Vệ Hoàn Kích Chiến. Vì khi đó quyền lợi của họ không có gì tại Việt Nam, ngoại trừ chiến lược quốc tế nhưng đã hết công hiệu bởi cuộc chiến đã kết thúc vào năm 1975, trái lại, Trung Cộng phải chịu gánh nặng viện trợ quá nhiều và quá lâu với Miền Bắc, sau đó thấy đàn em phản bội theo Liên Xô nên dạy cho một bài học. Và Đặng Tiểu Bình cũng xác định được cuộc chiến đó không lợi lộc gì nên giới hạn về mặt thời gian. Quả thật kết quả mang lại là: Chó chết thì Mèo cũng bể bụng!

 

3) Một điểm hiện rõ nhưng ít ai để ý, sau sự thành công của cách mạng năm 1949 của Mao Trạch Đông, tuy dứt điểm được các triều đại vua chúa phong kiến, nhưng nền ngoại giao của Trung Cộng vẫn theo lối “vỏ ốc”, tính tự cao tự đại đã tự phong bế lấy vị trí địa lý chính trị của họ, nên Trung Cộng không có đồng minh, không có bạn hữu, mà chủ yếu là kẻ thù. Khi Đặng Tiểu Bình phát hiện và mở cửa thì đã muộn, đất nước Trung Hoa đã bị vây kín 3 mặt, bởi, phía Bắc là nước Nga hùng mạnh có nguyên tử, phía Tây là Ấn Độ cũng có hạt nhân, phía Đông có 2 nước Triều Tiên, phần Bắc Hàn tuy là đồng chí nhưng cũng phải dè chừng vì họ có bom nguyên tử, còn phần Nam Hàn thì bị căn cứ quân sự Hoa Kỳ cản đường, nên duy nhất, Trung Cộng chỉ còn hướng Nam là Việt Nam, nơi có thể hiếp đáp để giải quyết nạn nhân mãn của họ!

Rất tiếc, các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã không nhìn ra được sự yếu thế của đàn anh, để khi con Sư tử phương Bắc rống lên 1 tiếng dọa… thì con Rồng phương Nam cũng phải gầm lên 2 tiếng, có thế, thiên địa sẽ dịu êm, còn im lặng thì thú dữ sẽ ăn thịt ngay. Bao trang sử cổ của xứ Việt từng minh chứng điều đó!

Cũng từ yếu điểm trên, nếu Trung Cộng giao chiến với Việt Nam nghĩa là bắt ép đàn em theo đối thủ Hoa Kỳ, điều này khác nào họ tự động cô lập và làm yếu hơn thế chiến lược của mình.

 

4) Trung Cộng không có một lý do gì để chiếm đóng Việt Nam trên Đất liền, dù là ngắn ngày. Còn Hoàng Sa- Trường Sa thì họ đã chiếm rồi! Nhưng chính phát súng khai hỏa bảo vệ chủ quyền của Việt Nam vào lúc này, thì có thể Trung Cộng sẽ lui về lại kế: Phù Để Trừu Tân, nghĩa là (bớt lửa dưới nồi), tạm hiểu là không nên ép Việt Nam quá, và dĩ nhiên, Trung Cộng sẽ đưa ra giải pháp có lợi hỗ tương mà lần này sẽ thành thật chứ không lừa lọc, dối trá, ỷ mạnh để độc chiếm quyền lợi tại Biển Đông. Vì họ thừa hiểu rằng, sự phát triển kinh tế mang tính “bùng nổ” của họ không tạo sự cảm tình với thế giới, nên, nếu họ mở cuộc chiến tranh thì vô tình chính họ đưa 2 tiếng Việt Nam đến với sự cảm tình của cộng đồng quốc tế, và Việt Nam theo con đường dân chủ thì họ sẽ tổn thất về mọi mặt tại quốc gia phía Nam quan trọng này.

 

BIỆN PHÁP TẠM THỜI (có lẽ) CŨNG LÀ DUY NHẤT

Đối chiếu và lượng định mọi tình hình khách quan và đặc tính chủ quan chính trị trong chiến lược của Trung Cộng, cũng như quá nhiều quyền lợi thiết thực hiện có của họ tại Việt Nam, có thể hình dung như một bàn cờ đã gài đặt mọi góc cạnh hết sức cao thâm và bí hiểm! Tuy với thế trận hiểm nghèo như thế, nhưng không có nghĩa là Việt Nam đã “cạn nước”, mà không có cách khai cờ phá trận để biến bại thành: Chiếu Tướng!

Bởi thế, nếu các nhà lãnh đạo Việt Nam nào, có chí hướng bảo vệ chủ quyền quốc gia thì không nên ngồi đó mà suy ngẫm chịu thua, vì càng kéo dài thì bước tiến của Trung Cộng càng lấn sâu vào nội địa!

Năm 2010 có nhiều yếu tố thuận lợi trong chính trị, nhất là mặt tác động quốc tế rất hội đủ điều kiện tốt để chặn đứng âm mưu của Trung Cộng, dựa theo nguyên tắc bất di trong binh pháp là khi bị kìm hãm bao vây, thì phải tạo biến để khai thông mà biện pháp hữu lực và hữu lý nhất, là:

 

Quân Sự và An Ninh:

Thay vì, đặt nhiều hy vọng vào ngoại giao nhằm vận động liên minh quốc phòng trong mục đích xây dựng và ổn định khu vực, mà kết quả chỉ là “tốn nác, rác nhà ”.

Thì nay, Việt Nam nên lợi dụng ngay vào lúc là Chủ tịch luân phiên của khối Asia. Để huy động toàn bộ lực lượng Không quân – Hải Quân kết hợp cùng Bộ binh, lên kế hoạch và đơn phương triển khai tập trận tại các vùng duyên hải trọng yếu. (xin nhấn mạnh là: Đơn phương tập trận)

Tại sao phải đơn phương tập trận ngay vào lúc này???

Bất ngờ cho Trung Cộng chính là điểm này mà trong 35 năm qua, sau khi kết thúc cuộc chiến, quân đội Việt Nam im hơi lặng tiếng không thao dợt. Nhưng nay “đột xuất”..!

Chính những tiếng pháo rơi đạn nổ.. Bùm..Pằng.. tập trận trên biển, là tín hiệu gởi đến Trung Cộng như một sự tự tôn của dân tộc Việt Nam thách thức rằng:

– “Tôi chẳng sợ gì anh một chút nào, nếu anh ép-đánh tôi, anh sẽ mất sạch..”!

Nhưng, những tiếng súng “quậy sôi” Biển Đông này cũng là thông điệp gởi đến các quốc gia trong khu vực, thay vì, nói trên bàn hội nghị sẽ không bằng hành động, vì lịch sử thế giới chưa chứng minh có quốc gia tự do nào hỗ trợ quốc phòng cho một nước cộng sản lúc động binh! Dĩ nhiên, thoạt tiên, các quốc gia này không thích, có khi, họ sẽ phản đối qua ngoại giao, nhưng Biển Đông bị “hâm nóng” lên thì buộc lòng họ cũng phải tăng ngân sách quốc phòng, và tập trận, có khi đơn phương, rồi song phương, dẫn đến liên minh, và tất nhiên, các nước nước nhỏ yếu trong khu vực sẽ tự liên kết với Việt Nam, vì sự bành trướng của Trung Cộng là nỗi lo ngại chung!

Và, chính chiến thuật này mới đánh trúng huyệt đạo của Trung Cộng. Vì xưa nay, bản chất lãnh đạo từ cổ chí kim của họ luôn luôn bị nỗi ám ảnh lo sợ trong nội bộ, là các sắc tộc Mãn-Hồi-Mông-Hán sẽ kết hợp vùng lên xé nát nước Trung Hoa ra từng mảng nhỏ. Còn bên ngoài, họ rất e ngại các quốc gia khác liên kết chống lại, đó cũng là một phần lý do cốt yếu mà Trung Cộng cương quyết lập trường đàm phán song phương, chứ không đa phương như các nhà lãnh đạo Hà nội mong muốn về vấn đề Biển Đông! Biết thế, thì Việt Nam nên dùng cây dao chiến thuật trên để thọc sâu ngoáy mạnh vào tử huyệt của đối phương.

Thứ nữa là, chiến thuật đơn phương tập trận này, không chỉ tạo được sự chú ý cho các nước trong khu vực, mà còn cuốn hút và tìm được thêm sự ủng hộ từ các quốc gia lớn mạnh trong vòng đai Thái Bình Dương. Nhưng đặc biệt, có hai siêu cường tuy không ra miệng khuyến khích, nhưng sẽ nhảy đầm vổ tay hoan hô.. ..Vì nhờ Việt Nam “biết quậy”, nên họ “trúng mánh” qua việc bán vũ khí “đắt như Tôm tươi”, đó là Nga và Hoa Kỳ. Hiểu giản dị là như vậy!

Hay ngầm hiểu rằng, trong thế tiểu quốc gặp hoạn nạn như Việt Nam hiện thời, thì không sức mạnh nào có thể hóa giải mối bị bao vây này, bằng Hoa Kỳ. Cho nên, việc tập trận là một hình thức vừa gián tiếp vừa chủ động mời gọi siêu cường này “nhập cuộc” sớm hơn, trong tư cách là quốc gia lớn luôn có trách nhiệm ổn định hòa bình thế giới, do đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam phải bỏ đi cái thói “ăn mày mà cao ngạo”, để hiểu rằng Việt Nam cần gấp Hoa Kỳ giúp đỡ, chứ quy luật này không bao giờ ngược lại trong hoàn cảnh hiện nay!

Xét từ biện pháp tạm thời này, nếu ai đã từng dày công khảo cứu và hoàn thành Luận án sử ký nước Việt, thì sẽ thấy một điểm hiếm hoi từ thời có quốc hiệu Đại Việt đến nay, biết bao vị tiền nhân anh minh muốn đưa quốc gia vào quyền độc lập, nhưng vì xung đột quốc tế triền miên, tác động và ảnh hưởng vào Việt Nam mà quốc vọng bất thành! Nhưng chính ngay thời điểm này, vâng; đúng vào thời điểm “ngàn năm có 1” này! Nếu nhà lãnh đạo Việt Nam nào có tư duy giỏi, bình tỉnh và khôn ngoan, thì sẽ an toàn đưa quốc gia vào thế chủ quyền độc lập (có thể là vĩnh viễn), theo kiểu mẫu thể chế chính trị dân chủ như Nam Hàn-Nhật Bản-Đài Loan, với giai đoạn đầu, nhân sự bảo trợ của Hoa Kỳ qua quyền lợi hỗ tương.

 

B) Loại bỏ ngay các hình thức như Thủ tướng ban hành Nghị định về việc: cấp và kiểm tra giấy phép tàu thuyền đánh cá nước ngoài vào hành nghề trong lãnh hải Việt Nam, hay trang bị vũ khí theo sách lược nhân dân tự vệ, thật quá sức ngớ ngẫn và mỵ dân! Chính các Nghị định mang tính khờ khạo của giới lãnh đạo bạc nhược này, tự nó đã chỉ rõ cho Trung Cộng thấy hạ sách yếu kém mưu lược, nên cường độ lấn át của họ tăng hơn! Mà thay vào đó, là phải huy động lực lượng Hải quân liên tiếp tuần tiểu trên vùng biển Việt Nam để bảo vệ cho ngư dân lao động trên ngư trường, sẵn sàng đối xử nhân đạo theo luật quốc tế đối với các “ tàu lạ” khi gặp ách nước tai trời. Nhưng nghiêm minh cảnh cáo, nổ súng chỉ thiên, hoặc bắt ngay bất cứ tàu thuyền Trung Cộng hành nghề trên vùng biển quốc gia, cứng rắn xử phạt như họ đã từng xử phạt các ngư dân Việt Nam.

 

Và dù rằng, bộ chính trị Bắc Kinh rất bực mình trước các biện pháp này, nhưng đây là chuyện nội bộ của mỗi quốc gia không hề gây hấn đụng chạm gì đến họ!

 

Tuy nhiên, trong hoàn cảnh nước bé thế yếu, lãnh đạo khờ khạo thì các biện pháp “động binh” nói trên, chỉ tác dụng nhãn tiền nhằm chặn đứng những hành động ngang ngược thô bạo lấy mạnh hiếp yếu của Trung Cộng đối với ngư dân.

 

Nhưng nếu các nhà lãnh đạo Việt Nam không dùng biện pháp “cứng” để răn đe cảnh cáo, mà hoài công kéo dài tìm kiếm giải pháp “mềm”, thì kết quả chỉ là tạo lợi thế cho Trung Cộng tiếp tục dụng kế để thâu tóm thêm các cứ điểm quan trọng tại đất liền.

 

Và căn cứ vào một số sự kiện lịch sử từng xảy ra trên thế giới, nhất là đối với các quốc gia từng chịu sự chi phối chính trị của Trung Cộng, có thể đưa ra một tiên đoán cũng là sự cảnh báo với các nhà lãnh đạo Việt Nam rằng. Khi vào thời điểm khả dĩ làm chủ được tình hình, thì Trung Cộng không cần thiết đến chế độ CSVN tồn tại nữa hay không! Nếu cựu hay đương thời lãnh đạo Việt Nam nào có liên quan, cản trở đến chiến lược của họ, thì cục tình báo Hoa Nam sẽ “làm thịt” theo “đơn đặt hàng” bằng các hình thức thủ tiêu ám muội..vv.v.v.. ! Muốn chứng minh cái họa sát thân này có hay không, thì các nhà lãnh đạo Việt Nam có thể nhìn lại cục diện chính trị của Campuchia hay Darfur trước đây, tất cả các quốc gia này đều là “sản phẩm bảo trợ” của Trung Cộng, với những cuộc thảm sát kinh hoàng, nhưng kết cục lãnh đạo của các quốc gia này không bị Trung Cộng giết thì phải chịu sự trừng phạt như Pon Pot và đồng phạm! Riêng trường hợp Việt Nam thì kết quả đen tối nói trên càng xảy ra sớm hơn, vì đảng cộng sản đang lắm phái nhiều phe, nhất là “phe Tàu, phe Mỹ”. Đặc biệt, khi chiến lược của Trung Cộng bị sự phản kháng mạnh mẽ từ dân chúng Việt Nam bằng những cuộc xuống đường biểu tình, thì Bắc Kinh sẽ càng gây rối loạn an ninh, tạo ra khủng hoảng xã hội càng nhiều theo kế: Sấn Hỏa Đả Kiếp (đốt lửa rồi theo lửa mà hành động), thì họ càng có lợi nhanh trong kết quả khống chế Việt Nam bằng cách cậy quyền hay xin phép, để có cớ đưa quân đội vào bảo vệ Hoa kiều và tài sản các dự án kinh tế của họ. Nếu xảy ra như thế; khi đó các nhà lãnh đạo Việt Nam có dám “to gan” từ chối không? Đó là giả thuyết về thượng tầng.

 

Còn hạ tầng thì giả định như: Đất đai, thổ nhưỡng “mặt bằng” tại Hà Nội-Sài Gòn hiện nay rất đắt giá, nhưng Trung Cộng cho đặc vụ, tình báo tạo nên những hình thức “xã hội đen” xung đột hình sự Tàu-Việt đẫm máu, khiến dân bản xứ lo sợ bán tài sản di chuyển nơi khác. Các “đại gia” từ Trung Cộng bay qua mua lại theo kế: Du Long Chuyển Phượng, và thành lập các tụ điểm ăn chơi, lâu dần, sẽ thành một Bắc Kinh nhỏ, hay Tân Thượng Hải ngay giữa các đô thị lớn Việt Nam, và tuổi trẻ bị cuốn hút vào đó, và chơi bời càng nhiều thì càng mau quên tổ quốc. Như thế, xâm lăng kiểu này rất là hợp pháp mà chẳng tốn viên đạn nào!

 

Tại sao các nhà lãnh đạo Việt Nam không nghĩ ra, mà lại lo sợ đánh thua Trung Cộng?

 

KẾT LUẬN CŨNG LÀ TÂM BÚT CỦA TÁC GIẢ

Hơn 5 năm trước, người Việt Nam không nghe tiếng phá đá nổ mìn của công nhân Trung Cộng xây đập thủy điện trên thượng nguồn Mê Kông hay Sông Hồng, hoặc biết, nhưng cho là không quan trọng!

Nhưng hôm nay đây, người Việt hoảng hốt nhìn nhau tự hỏi rằng, những nhánh sông thân quen cạn kiệt dòng nước, trơ đáy phơi bùn dưới trời hạn hán, tất cả đồng khô hồ cạn là vì đâu, do ai?

Nguyên thủ 4 quốc gia vùng hạ lưu Mê Kông liên tục họp hành, năn nỉ Trung Cộng mở đập xả nước để cứu đời sống người dân. Nhưng cho dẫu lên án hay quỳ lạy thì hậu quả của dữ kiện đã trở thành quy luật Xin-Cho. Vì xét theo địa lý, Trung Cộng (có quyền) vô trách nhiệm đặt điều kiện: “Muốn cung cấp đầy đủ nước cho vùng hạ lưu thì phải trả cho họ cái gì?”.

 

Nêu lên hình ảnh “hấp hối” của vùng hạ du Mê Kông mà Việt Nam ở vào đoạn cuối “ung thư” để nhấn mạnh rằng, việc công nhân trá hình khai thác Bauxite Tây Nguyên, hay nơi thượng nguồn 10 tỉnh cho thuê rừng hôm nay, thì tự nó đã là một phần đất của Trung Cộng theo khế ước hợp đồng.

 

Những nhát cuốc xẻng để đào bới-cày xén bây giờ chỉ là công đoạn đầu tiên, cho một chủ trương Xin – Cho sẽ xảy ra trong tương lai ngay trên quê hương Việt Nam, và sự Xin – Cho này không chỉ áp đặt lên đầu người dân, mà thành phần đầu tiên phải chịu sự áp đặt này chính là lãnh đạo quốc gia, nếu muốn tồn tại!

Hay nói cách khác, là Việt Nam từ từ lệ thuộc và mất hẳn chủ quyền vì 2 nguyên tắc căn bản của kẻ đi xâm lăng, là triệt tiêu dân trí và cướp nguồn lợi kinh tế thuộc của nước bị xâm lăng.

 

Tất cả các điểm nêu trên đều là chuyện nội bộ của mỗi quốc gia. Việt Nam cầu khẩn Hoa Kỳ và quốc tế giúp đở được không? Có lẽ, câu trả lời là: Không.

 

Điều đó chứng minh rằng, dù thế giới chung sống từ hòa đến đâu, thì quy luật mạnh sống yếu chết vẫn muôn đời tồn tại trong chủ trương chính trị và quân sự, và hơn ai hết, người lãnh đạo phải thấu triệt được sinh mệnh cũa tổ quốc và dân tộc, đặc biệt là lãnh đạo đương thời Việt Nam!

 

Hiểm họa vừa nêu trên, là bài học chính trị được viết bằng máu dành cho những ai là nguyên thủ quốc gia sau này, phải luôn luôn biết và nhớ về tầm quan trọng bởi vị trí địa lý chính trị của Việt Nam rất khác với các quốc gia trên thế giới. Vì đặc tính riêng biệt này, nên dù, quốc gia trải qua thể chế Cộng hòa hay Cộng sản, thì 2 yêu cầu căn bản phải được ưu tiên lên hàng đầu, đó là Quốc Phòng và Lãnh Đạo đi kèm với một chính sách Ngoại Giao “chừng mực-biết người biết ta”. Nhất là đối với quốc gia láng giềng Phương Bắc thì nhất định và cương quyết để không thể và không bao giờ phó thác số mệnh dân tộc vào nền ngoại giao: “Hữu Nghị và Hợp Tác”, cụm từ này chỉ ngụy hình cho những âm mưu tráo trở phi chính nghĩa.

Khi có được những yếu tố cần thiết như đã nói, thì mới đứng vững được trước một quốc gia khổng lồ ngạo ngược như Trung Hoa.

 

Cũng vì địa lý thiên ý và sự mất còn của mảnh đất này, mà trải dài hơn 900 năm từ 939 đến 1840, bao thế hệ tiên công phải kiên gan cố sức chống đở với 7 cuộc ngoại xâm, 2 lần nhà Tống, 3 lần nhà Nguyên, 1 lần nhà Minh, 1 lần nhà Thanh, nhưng dù Trung Hoa hùng mạnh đến đâu thì kết quả vẫn là thảm bại.

 

Qua sự dồn dập liên tiếp của các cuộc chiến tranh cổ đại đó, minh chứng một điểm rõ ràng, là các vua chúa của bất cứ triều đại phương Bắc nào, cũng luôn luôn có cùng một tham vọng và đeo đuổi cùng một chủ trương lấn chiếm Việt Nam, tư tưởng ngạo mạn: Thuận Ngã Giả Xương, Nghịch Ngã Giả Vong (lạy ta thì sống, chống ta thì chết), vẫn tồn tại với giới lãnh đạo Trung Cộng ngày nay, và mãi mãi.

 

Rất bất hạnh cũng là đáng tiếc! Vì hơn ai hết, giới đương quyền Việt Nam rất hội đủ điều kiện để đối đầu với nạn Hán xâm hôm nay. Bởi phần lớn, họ được sinh ra hay trưởng thành tại Miền Bắc, mảnh đất được thừa tự truyền thống quật cường của tiền nhân, thực tế hơn, các nhà lãnh đạo này từng được đào tạo và thành công trong việc cướp, dựng và giữ chế độ bằng một hệ thống gian manh, lọc lừa và dối trá. Chính cả 2 yếu tố Truyền thống và Hệ thống mà họ từng được hấp thụ và trui rèn này, rất khả dĩ, giúp cho họ đầy đủ mưu mô để chống lại một đối thủ nhiều mưu ma chước quỷ, giúp cho Việt Nam vượt lên cơn can qua đại họa này, tiếc thay, chính họ đồng cam tâm bán nước, đi ngược lại nguyện vọng dân tộc và sự trường tồn của quốc gia.

 

Vậy, có nên để chế độ này tồn tại nữa không???

 

Hay nói đúng hơn, muốn tổ quốc Việt Nam được trường tồn cùng Việt Tộc, thì chẳng có gì hy vọng vào sự cạn trí của nhóm lãnh đạo đương thời, hay ê kíp mới sau đại hội thứ 11 của đảng CSVN. Mà trong tình thế cấp bách hiện nay, Việt Nam cần phải có một chế độ dân chủ để tìm được những khuôn mặt lãnh đạo, mà ít ra, có được bản lỉnh chính trị độc lập như Ngô Đình Diệm, có tư duy sâu sắc và tiên kiến như Ngô Đình Nhu, có tính cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia như Nguyễn Văn Thiệu, cũng nhờ mệnh lệnh của ông cùng tiếng súng chống ngoại xâm của lực lượng Hải quân VNCH năm 1974, hay như tiếng súng của Hải quân Bộ đội năm 1988. Tinh thần bất khuất và sự nằm xuống của con dân nước Việt hôm qua, chính là bằng chứng hùng hồn cho lớp người hôm nay, hay mai hậu cất cao tiếng nói với thế giới rằng: HOÀNG SA-TRƯỜNG SA LÀ CỦA VIỆT NAM.

 

Vậy, tiếng súng nằm trong biện pháp vừa nêu trên, cũng nhằm bảo vệ ngư dân Việt Nam, nhằm thể hiện tính chủ quyền-nội bộ của một quốc thể, thì hà cớ chi các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải lo sợ rụt rè!?

 

Rất có thể! Bài viết này đã vượt ra ngoài vị trí tác giả, và tính “vô tư ” của một bài báo, nên ắt rằng, tác giả sẽ bị cho là Diều Hâu hiếu chiến, hay… đôi điều gì đó!

Tuy nhiên, dù dưới mọi biên độ của quan điểm hay chính kiến nào thì tâm tình và suy nghĩ độc lập của người viết rất bình dị như nông dân Việt Nam rằng: Quốc-Dân Việt Nam là vạn đại!

Vui nào hơn, khi nhận được sự cảm thông thì vãn sinh xin tha thiết thọ ơn sâu-dài!

 

Trân trọng xin lỗi bạn đọc “tâm đắc” của tác giả, vì bài này dài nhưng không thể chia đôi. Kính ái gởi lời chào Việt Nam đến toàn thể quý vị.

 

© Nguyễn Duy Thành

© Đàn Chim Việt

 

.

.

.

 

NẾU ẤN ĐỘ KHÔNG HỢP TÁC VỚI VIỆT NAM (Quỳnh Chi, RFA)

Tháng Chín 30, 2011

 

Nếu Ấn Độ không hợp tác với Việt Nam

Quỳnh Chi, phóng viên RFA

2011-09-29

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/wh-india-withdraw-fr-coop-vn-qc-09292011174059.html

 

Tuần qua, đại sứ R S Kalha, cựu Ngoại trưởng Ấn Độ, có bài lên tiếng cho rằng Ấn Độ nên suy xét lại việc hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam tại Biển Đông.

Ông này cho rằng việc hợp tác này có thể mang đến xung đột cho Trung Quốc và nước này. Cùng thời gian, giáo sư Ấn Độ Virendra Sahai Verma, từng là cựu sĩ quan tình báo cũng viết bài thể hiện sự quan ngại tương tự. Nếu không hợp tác với các nước khác, Việt Nam phải làm gì để vừa bảo vệ chủ quyền, vừa có thể khai thác vùng thuộc đặc quyền kinh tế của mình?

 

Quỳnh Chi hỏi chuyện giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, hiện công tác tại khoa quan hệ quốc tế trường Đại học Goerge Mason. Trước tiên, ông cho biết ý kiến về quan ngại của cựu Ngoại trưởng Ấn Độ:

 

Tự bảo vệ mình trước

 

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Ở một nước dân chủ, thể hiện ý kiến khác nhau là bình thường. Khi New Dehli muốn hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam, nguy cơ xung đột giữa Ấn Độ và Trung Quốc không thể nói là không có. Tuy nhiên, bây giờ chỉ ở mức hai bên mặc cả với nhau. Trung Quốc lúc nào cũng phản đối việc các quốc gia khác hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam tại Biển Đông. Vấn đề là các quốc gia khác có dám hợp tác không. Nếu khéo léo, Việt Nam không những lôi kéo sự hợp tác của công ty dầu khí Ấn Độ mà còn cả của các nước khác.

 

Quỳnh Chi: Nếu như Ấn Độ hay tất cả các nước khác đều từ chối hợp tác khai thác dầu khí với Việt Nam tại Biển Đông, thì Việt Nam nên làm gì để vừa khẳng định chủ quyền mà vừa hưởng lợi từ vùng tài phán kinh tế của mình?

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Trung Quốc lấn lướt trong vấn đề Biển Đông bằng cách chỉ đồng ý khai thác vùng thuộc chủ quyền của họ cũng như tại các vùng tranh chấp. Đối với những vùng thuộc chủ quyền của Việt Nam, công ty nào vào khai thác sẽ bị hăm dọa. Khi Trung Quốc áp lực như thế, dần dần vùng ấy sẽ trở thành vùng của họ. Cho nên Việt Nam nên hợp tác khai thác vùng biển với các nước khác, như Mỹ chẳng hạn bởi vì nếu họ có quyền lợi thì họ sẽ tham gia vào thôi. Việt Nam cần mang được những công ty lớn như thế vào khai thác. Để làm được điều ấy, Việt Nam phải có khả năng bảo vệ cho các công ty nước ngoài ấy.

 

Quỳnh Chi: Còn vấn đề dựa vào thực lực quốc gia để bảo vệ và khai thác vùng đặc quyền kinh tế của mình thì sao thưa ông?

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Dựa vào thực lực của mình là quan trọng nhất. Thứ nhất, mình phải có ý chí bảo vệ quyền lợi của mình. Thứ hai, mình phải chứng tỏ khả năng bảo vệ chính mình thì người khác mới có thể giúp được. Trong trường hợp của Việt Nam, ý chí không rõ rệt, lực lượng lại không có cho nên khi thảo luận với các nước khác thì phải làm thế nào để họ thấy được lợi ích của họ. Đừng quên rằng mỗi một quốc gia luôn phải định toán hơn thiệt về quyền lợi của họ. Mỗi một quốc gia có một quyền lợi riêng, và họ muốn được thể hiện điều đó.

 

Quỳnh Chi: Ông có thể nói rõ hơn không?

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Đối với Ấn Độ, đây là một nước cạnh tranh rất lớn của Trung Quốc tại Châu Á. Cho nên giảm bớt sự ảnh hưởng của Trung Quốc là một điều Ấn Độ muốn. Tình thế này là có lợi cho Việt Nam. Đối với các nước khác thì lợi ích lại theo một hướng khác. Mỹ cũng có một lợi ích khác.

 

Quỳnh Chi: Nhiều người cho rằng với Hạm đội 7, Hoa Kỳ sẽ đóng một trò chủ chốt tại Biển Đông. Tuy nhiên, có người nghi ngờ về sự ảnh hưởng của nước này khi họ là con nợ của Trung Quốc. Ông nhận định thế nào?

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Trong thời gian tới, Hoa Kỳ vẫn sẽ đóng một vai trò rất quan trọng ở Biển Đông. Dĩ nhiên là có những yếu tố làm việc thể hiện sự quan tâm ấy khác đi. Tuy nhiên, quan điểm thắng thế hiện nay vẫn là Hoa Kỳ phải để ý đến vấn đề Trung Quốc, cho nên họ sẽ không nhượng bộ vấn đề ở Biển Đông. Có những vấn đề Hoa Kỳ sẽ không nhượng bộ: đó là an ninh hàng hải, tự do lưu thông.

 

Hợp tác với nước khác

 

Quỳnh Chi: Tuần trước, Philippines tổ chức một hội nghị về vấn đề Biển Đông dành cho chuyên gia hàng hải và pháp luật của 10 nước trong khối ASEAN. Trước đó cũng có một cuộc hội nghị cùng chủ đề tại Bỉ. Cả hai hội nghị đều có mặt đại diện Việt Nam. Ông có cho rằng dựa việc tìm sự đồng thuận ở các nước ASEAN là việc nên làm?

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Đó là đường hướng bắt buộc. Tôi thấy Philippines đang làm tốt con đường ấy. Philippines là một nước dân chủ nên sẽ có những phe đối lập và ý kiến trái chiều. Chính phủ Philippines hiện nay một mặt thì hòa hoãn với Trung Quốc, một mặt là nhất định khai thác những phần gì mà họ cho là của họ. Và họ nhất định mang các quốc gia khác vào. Tuy nhiên, Manila có một cái lợi là họ có hiệp ước phòng thủ với Hoa Kỳ. Họ đã hỏi thẳng với đại sứ Hoa Kỳ tại Philippines rằng hiệp ước này còn giá trị không. Và nếu còn thì nếu xảy ra giao tranh giữa Philippines và Trung Quốc thì bắt buộc Hoa Kỳ phải giúp đỡ.

 

Quỳnh Chi: Ngoài tổ chức 2 cuộc hội nghị về Biển Đông vừa qua, tổng thống Philippines cũng đang tranh thủ sự ủng hộ của Nhật. Ông đánh giá như thế nào về việc tranh thủ sự ủng hộ quốc tế của Việt Nam?

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Trước hết thì Việt Nam cũng làm được nhiều việc rồi. Tuy nhiên, trong việc vận động quốc tế thì Philippines có căn bản vững vàng hơn. Việt Nam có phần nể Trung Quốc hơn. Nước ta gần Bắc Kinh nên bị nước này để ý nhiều hơn. Đối với Trung Quốc, nếu có thể làm Việt Nam nhượng bộ, các quốc gia khác cũng nhượng bộ hết. Thứ hai, cả Việt Nam và Trung Quốc đều có cùng ý thức hệ. Họ đều quan hệ nguy cơ thương tự như cuộc cách mạnh hoa nhài, cho nên hành động sẽ khác hơn.

 

Quỳnh Chi: Ông có nói về việc ký các hiệp ước bảo vệ lẫn nhau giữa các nước. Việt Nam và Liên Xô cũng từng ký một hiệp ước liên minh quân sự vào tháng 11 năm 1978 nhưng Việt Nam đã không được Liên Xô giúp đỡ trong cuộc chiến với Trung Quốc năm 1979 và 1988. Ông nhận thấy hiệu quả của các hiệp ước như vậy là như thế nào?

GS Nguyễn Mạnh Hùng: Hiệp ước còn tùy vào các điều khoản. Ví dụ, Hiệp ước phòng thủ Bắc Đại Tây Dương nói rằng khi một nước bị tấn công thì coi như tất cả các nước bị tấn công. Đối với Hiệp ước Phòng thủ Đông nam Á nói rằng trong trường hợp một nước bị tấn công, thì các quốc gia sẽ nghiên cứu vấn đề đó và hành động theo căn bản hiến pháp của họ rồi quyết định theo sự đồng thuận. Tóm lại, hiệp ước tùy thuộc vào điều khoản cam kết và tùy thuộc vào sự cam kết của các nước ký hiệp ước.

 

Quỳnh Chi: Cám ơn giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng.

 

Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.

 

.

.

.

 

TIN & BÀI của NGÀY 29-9-2011

Tháng Chín 30, 2011

 

TIN & BÀI của NGÀY 29-9-2011

.

TRUNG QUỐC ĐÁNG TIN ĐẾN MỨC NÀO ? (Quỳnh Chi, RFA)

ĐỂ SOẠN DỰ LUẬT BIỂU TÌNH HIỆU QUẢ (Trung Điền)

NGUYỄN KHẢI & BẢN CHÚC THƯ CHÍNH LUẬN (Đỗ Xuân Tê)

ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT [1/2] (Nguyễn Khải)

ĐI TÌM CÁI TÔI ĐÃ MẤT [2/2] (Nguyễn Khải)

QUAN HỆ ẤN ĐỘ – VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG (Hoài Hương, VOA)

HỒ SƠ WIKILEADS (21) : ‘Con ông cháu cha’ trong cách nhìn của Mỹ (Hà Giang/Người Việt)

KHI “LÃO LÝ” LẮC ĐẦU (Bùi Tín)

NGOẠI TRƯỜNG CSVN BIỆN HỘ CHO NHÂN QUYỀN VN tại LIÊN HIỆP QUỐC (RFI, VOA, BBC)

CHUYÊN GIA TQ : THỜI CƠ DÙNG VŨ LỰC Ở BIỂN ĐÔNG ĐÃ CHÍN MUỒI (Dương Danh Dy dịch)

MẠNG TQ ; BÍ THƯ TW ĐẢNG CSVN ĐÁ TRUNG QUỐC MỘT CÚ RẤT MẠNH (Dương Danh Dy dịch)

TRUNG QUỐC CẢNH BÁO CHÂU Á ĐỪNG NÚP BÓNG HOA KỲ (RFI, VOA)

AUDIO : QUAN HỆ TRUNG CỘNG – VIỆT CỘNG TRONG 10 NĂM QUA (Nguyễn Xuân Nghĩa, Đài SBS)

CHIẾN LƯỢC QUỐC PHÒNG KÉP CỦA VIỆT NAM (Robert Karniol,The Straits Times)

TRUNG QUỐC ĐANG HƯỚNG TỚI SỤP ĐỔ ? (Samuel A Bleicher Foreign Policy in Focus)

ẤN ĐỘ & BIỂN ĐÔNG – CẦN NHÌN LẠI (R.S.Kalha, Institute for Defense Studies & Analyses)

VAI TRÒ & TẦM QUAN TRỌNG CỦA CHÂU Á ĐỐI VỚI AUSTRALIA (Đài ABC)

HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA DỰ ÁN BAUXITE TÂY NGUYÊN (Thế Văn, ABC)

CUỘC VẬN ĐỘNG ĐƯA VIỆT NAM TRỞ LẠI DANH SÁCH CPC (Đỗ Hiếu, RFA)

CÒN ĐỘC QUYỀN, ĐỘC TÀI THÌ CÒN KHỔ DÀI DÀI (Song Chi)

THỦ TƯỚNG CSVN CHỈ THỊ BỘ CÔNG AN SOẠN “LUẬT BIỂU TÌNH” (Người Việt)

TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN CỦA NHỮNG NGƯỜI VIỆT NAM KHỐN CÙNG đọc tại SÀI GÒN 23-4-1977

TIN & BÀI của NGÀY 28-9-2011

.

.

.

TRUNG QUỐC ĐÁNG TIN ĐẾN MỨC NÀO ? (Quỳnh Chi, RFA)

Tháng Chín 30, 2011

Trung Quốc đáng tin đến mức nào?

Việt Hà, phóng viên RFA

2011-09-29

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/can-cn-keep-prom-in-wh-paper-vh-09292011164713.html

 

Hồi đầu tháng 9, nhân kỷ niệm 90 năm thành lập đảng cộng sản Trung Quốc, chính phủ Trung Quốc công bố bạch thư khẳng định lập trường của Trung Quốc muốn phát triển hòa bình.

Liệu điều này có ý nghĩa thế nào với thế giới nhất là khi những xung đột về quyền lợi và lãnh thổ vẫn đang tồn tại giữa Trung Quốc và các nước láng giềng?

 

Nói một đằng làm một nẻo

 

Với bức bạch thư công bố hôm mùng 6 tháng 9 vừa qua, Trung Quốc khẳng định sẽ đi theo con đường phát triển hòa bình, cam kết gìn giữ hòa bình thế giới và thúc đẩy sự phát triển thịnh vượng chung của tất cả mọi quốc gia. Thế nhưng vẫn còn những nghi ngờ về mong muốn hòa bình này của Trung Quốc, đặc biệt là đối với các nước hiện đang có tranh chấp với Trung Quốc trong khu vực châu Á Thái Bình Dương.

Cựu đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh hồi những năm 1970, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh nhận xét:

“Tôi nói là đừng vội nghe lời người Trung Quốc nói, hãy xem việc làm người ta làm, thường là họ nói một đằng làm một nẻo nên tôi không tin những lời trong bạch thư của Trung Quốc đâu vì tôi có kinh nghiệm rằng họ nói thì hữu nghị nhưng họ làm thì rất tai hại cho các đối tác.”

Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cho rằng bạch thư này chỉ nhằm mục đích trấn an lo ngại của thế giới về sự lớn mạnh của Trung Quốc mà thôi.

Trung Quốc hiện đang có tranh chấp về lãnh hải trên khu vực biển Đông với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Căng thẳng giữa Trung Quốc và hai nước Đông Nam Á là Việt Nam và Philippines xung quanh chủ quyền tại quần đảo Trường Sa ở biển Đông đã tăng cao trong những tháng đầu năm nay.

Tàu Trung Quốc trong các tháng 3, 5, và tháng 6 liên tục uy hiếp, cắt cáp các tàu thăm dò của Philippines và Việt Nam. Đó là chưa kể, từ nhiều năm nay, những ngư dân của hai nước này đánh bắt cá tại các khu vực tranh chấp gần quần đảo Trường Sa, và Hoàng Sa luôn bị tàu của Trung Quốc đe dọa, đuổi bắt.

 

Nhận xét về những hành động này của Trung Quốc hồi đầu năm nay, giáo sư môn quan hệ quốc tế trường đại học De La Salle, Philippines, ông Renato Cruz de Castro nói:

“Nó cho thấy sự leo thang hơn nữa trong việc khẳng định sức mạnh trên biển của Trung Quốc. Trung Quốc đang muốn cho chúng ta thấy là họ là một cường quốc đang nổi lên và chúng ta phải tôn trọng cái gọi là quyền trên biển của họ cũng như sức mạnh trên biển của họ.”

 

Gần đây nhất, hôm 24 tháng 9 vừa qua, hai tàu cá của ngư dân Việt Nam khi đi tránh bão tại gần khu vực quần đảo Hoàng Sa, đã bị tàu Trung Quốc xua đuổi.

 

Vì quyền lợi cốt lõi

 

Những nghi ngờ của thế giới về cam kết này của Trung Quốc cũng được phía Trung Quốc nhìn nhận. Chẳng vậy mà vào hôm 15 tháng 9 vừa qua, ủy viên quốc vụ viện Trung Quốc Đới Bỉnh Quốc đã có bài phát biểu tại Bắc Kinh về quan điểm hòa bình này của bạch thư. Ông trực tiếp đề cập đến sự nghi ngờ của cộng đồng thế giới về cam kết của Trung Quốc và phản ứng của các nước. Ông Đới Bỉnh Quốc khẳng định Trung Quốc sẽ giữ vững lời hứa hòa bình của mình. Ông nói:

“Người dân Trung Quốc đã phải chịu đựng rất nhiều bởi xâm lược nước ngoài và chủ nghĩa thực dân. Qua chiến đấu gian khổ, khó khăn, người dân Trung Quốc cuối cùng đã giành được độc lập, và tự do. Vì vậy không có cách gì mà người Trung Quốc lại muốn người dân các nước khác cũng phải chịu đựng như mình. Lịch sử 5,000 năm của Trung Quốc đã khẳng định sự hòa hợp và hòa bình đầy giá trị này trong suy nghĩ của người Trung Quốc.”

 

Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc nói đến mong muốn chung sống hòa bình, hòa hợp với thế giới. Ngay từ năm 1997, Trung Quốc đã đưa ra ý tưởng mới về an ninh, trong đó có nói đến chủ trương không bắt nạt các nước khác, nhưng mọi sự đã thay đổi với các hành động được cho là hiếu chiến của Trung Quốc trên biển Đông thời gian gần đây.

 

Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Đông Nam Á, thuộc học viện quốc phòng Úc cho biết:

“Từ năm 1997 khi Trung Quốc có ý tưởng mới về an ninh thì có nói là không sử dụng kiểu ngoại giao pháo hạm hay bắt nạt nước khác. Trung Quốc chỉ ra đó là cách hành xử của Mỹ. Trung Quốc cố gắng thuyết phục các nước ASEAN rằng Trung Quốc muốn chung sống hòa bình. Năm ngoái tất cả đã đảo ngược và chống lại Trung Quốc. Trung Quốc mất đi những nước ủng hộ mình trước kia và một lần nữa đặt ra vấn đề về sự đe dọa của Trung Quốc.”

 

Ngay sau khi những xung đột trên khu vực biển Đông lên cao vào hồi đầu năm nay, Trung Quốc cũng vẫn một mực công khai khẳng định cam kết giải quyết hòa bình các tranh chấp, tránh sử dụng mọi vũ lực. Thế giới nhìn nhận đây là những lời sáo rỗng. Giáo sư môn quan hệ quốc tế thuộc trường đại học La Trope, Úc, ông Nick Bisley nhận xét:

“Những lời văn hoa mà Trung Quốc đưa ra là hòa bình và sống trong hòa hợp thì hiện chủ yếu vẫn chỉ là văn hoa mà thôi. Thực tế phải nói đến chính sách mà họ theo đuổi để đạt được mục đích này thì lại gây hậu quả cho những nước khác.

Tôi nghĩ họ biết những điều này nhưng họ lờ đi những hậu quả mà họ gây ra trong các hành động đối với Việt Nam và Philippines. Đối với Trung Quốc đây là một quyền lợi cốt lõi và họ sẽ không từ bỏ quyền lợi này. Tôi không nghĩ là trong ngắn và trung hạn Trung Quốc sẽ lùi bước khỏi các đòi hỏi về chủ quyền cứng rắn của mình đối với biển Đông.”

 

Trung Quốc cũng đã từng gọi biển Đông là quyền lợi cốt lõi của mình tương tự như Tây Tạng và Đài Loan. Và tất nhiên trong bạch thư của mình, Trung Quốc cũng không quên khẳng định quyền lợi cốt lõi trong chủ quyền an ninh quốc gia, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Không chỉ có tranh chấp với các các nước trong khu vực Đông Nam Á. Hiện Trung Quốc cũng đang có tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản xung quanh quần đảo Senkaku trên biển Hoa Đông. Vào hồi đầu tháng 8, Nhật bản công bố sách trắng quốc phòng năm 2011, trong đó bày tỏ những quan ngại trước sự gia tăng các hoạt động hải quân của Trung Quốc. Sách cũng viết rằng khi giải quyết các vấn đề xung đột lợi ích với các nước láng giềng bao gồm Nhật Bản, Trung Quốc luôn sử dụng cách bắt ép nước khác, gây lo ngại về đường lối chính sách trong tương lai của Bắc Kinh.

 

Láng giềng lâu năm

 

Ngoài ra, Trung Quốc cũng có tranh chấp trên biên giới đất liền và biển Ấn Độ Dương với một quốc gia láng giềng lâu năm khác là Ấn Độ. Gần đây nhất, vào hồi đầu tháng 9, Trung Quốc đã lên tiếng chính thức yêu cầu công ty dầu khí quốc gia Ấn Độ ONGC phải ngưng việc thăm dò dầu khí tại hai lô dầu khí ngoài khơi miền Trung Việt Nam.

 

Phó đề đốc hải quân Ấn Độ Uday Bhaskar cho rằng những hành động trên thực tế của Trung Quốc đang gây phản ứng lo ngại từ các nước láng giềng:

“Theo tôi thì Trung Quốc biết được những phản ứng gì sẽ đến từ những nước láng giềng. Các anh cứ nói về sự lớn mạnh hòa bình nhưng các nước láng giềng không tin anh. Liệu láng giềng lo lắng về anh hay không khi việc anh làm đi ngược lại điều anh nói về sự lớn mạnh hòa bình. Sự lớn mạnh của Trung Quốc tạo lo ngại cho khu vực.”

 

Vậy cam kết phát triển hòa bình trong bạch thư lần này có phải là một lời sáo rỗng giống như những lời tuyên bố trước đây của Trung Quốc? Người đại diện chính phủ Trung Quốc, ông Đới Bỉnh Quốc nói:

“Câu trả lời là không. Phát triển hòa bình là một cam kết mạnh mẽ của đảng cộng sản Trung Quốc, nhà nước và người dân Trung Quốc. Nó cho thấy chính sách đối nội và đối ngoại của Trung Quốc cũng như chiến lược phát triển quốc gia, được biến thành hành động cụ thể. Phát triển hòa bình có nghĩa là về đối nội Trung Quốc tìm kiếm sự hòa hợp và phát triển, về đối ngoại Trung Quốc theo đuổi hòa bình và hợp tác.”

 

Sau khi bạch thư được công bố, một đại diện thuộc đảng cầm quyền tại Đài Loan nói với báo giới nước này rằng những gì đưa ra trong bạch thư hoàn toàn chẳng có gì mới. Điều mà thế giới quan tâm nhất lúc này là liệu Trung Quốc có thể làm gì để giải quyết hòa bình các tranh chấp trên biển Đông và biển Hoa Đông đúng như những gì được đưa ra trong bạch thư.

 

Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.

.

.

.

ĐỂ SOẠN DỰ LUẬT BIỂU TÌNH HIỆU QUẢ (Trung Điền)

Tháng Chín 30, 2011

 

Để soạn Dự Luật Biểu Tình hiệu quả

Trung Điền

Cập nhật: 29/09/2011

http://www.viettan.org/spip.php?article11579

 

Sau hơn 1 tháng chỉ thị cho Bộ công an phải đàn áp và chấm dứt những cuộc biểu tình hàng tuần mỗi sáng Chủ Nhật của người dân chống lại các hành vi xâm lấn biển Đông của Bắc Kinh vào ngày 21 tháng 8 năm 2011, Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Cộng sản đã yêu cầu Bộ công an nghiên cứu và soạn thảo một dự án liên quan đến Luật biểu tình để thông qua kỳ họp quốc hội khóa XIII trong những ngày tới. Theo Bộ trưởng tư pháp Hà Hùng Cường phát biểu tại diễn đàn Quốc hội Cộng sản Việt Nam chiều ngày 28 tháng 9 vừa qua, Nguyễn Tấn Dũng cho rằng đã đến lúc phải có một đạo luật về quyền biểu tình, để thể chế hóa việc tuần hành, tụ tập bày tỏ ý kiến của người dân, trong phiên họp nội các tháng 9.

 

Theo ông Cường thì Luật biểu tình là 1 trong 19 dự án luật được đề xuất trong lãnh vực xây dựng luật điều chỉnh về quyền công dân, quyền tự do dân chủ của người dân. Tuy nhiên cho đến nay, chưa có luật nào trong 19 dự án luật nói trên được Quốc hội CSVN thảo luận và thông qua. Hai dự án luật về “quyền lập Hội” và “quyền tiếp cận thông tin của người dân” đã được Bộ tư pháp soạn và tu chính nhiều lần dưới cả hai đời chủ tịch Quốc hội là Nguyễn Văn An và ông Nguyễn Phú Trọng, nhưng vẫn chưa được đưa ra biểu quyết thông qua.

 

Xuyên qua sự đề xuất Luật biểu tình của Nguyễn Tấn Dũng, Phạn Trung Lý, Chủ nhiệm ủy ban pháp luật Quốc hội cho là có hai luồng ý kiến rất trái ngược trong ủy ban.

 

Ý kiến ủng hộ thì cho đây là lúc cần phải thể chế hóa quyền biểu tình, quyền tụ họp tuần hành theo những quy định của Hiến pháp. Việc ban hành luật này được Ủy ban pháp luật Quốc hội cho là để người dân thực hiện quyền của mình, đồng thời nhà cầm quyền cũng có cơ chế kiểm soát những hoạt động biểu tình mà trên thực tế không thể nào ngăn cấm được nữa.

 

Ý kiến không ủng hộ thì cho đây là lúc chưa cần thiết vì việc ban hành luật này sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội, tạo điều kiện cho các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng biểu tình chống phá chế độ. Nếu ban hành luật biểu tình thì phải coi lại thời điểm thông qua, nội dung quy định để giúp cho những cơ quan địa phương đối phó với những cuộc biểu tình bị kích động biến thành gây rối trật tự an ninh.

 

Qua hai ý kiến nói trên, người ta đã thấy rõ là có hai sự nhận thức khác nhau về quyền con người, khi mà cơ chế “xin – cho” đã ăn quá sâu vào trong nếp sống xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Ngay cả lý luận của những người ủng hộ sự ra đời Luật biểu tình, ta cũng nhìn thấy rất máy móc khi cho rằng phải có luật để thể chế hóa cơ chế kiểm soát biểu tình vì không còn có thể ngăn cấm được nữa, chứ không phải dựa trên sự tôn trọng nhân quyền.

 

Nói cách khác, đề xuất của ông Dũng và những suy nghĩ của các ông bà đại biểu dân trong Ủy ban pháp luật Quốc hội liên quan đến dự án luật biểu tình đều dựa trên nhu cầu của chế độ chứ không phải nhu cầu của người dân. Nếu không có 11 cuộc biểu tình xảy ra “liên tục” tại Hà Nội và Sài Gòn từ đầu tháng 6 đến cuối tháng 8 vừa qua, ông Dũng và Bộ công an đã không bị sức ép “dư luận” để có… sáng kiến nói trên.

 

Cho đến nay hãy còn quá sớm để thẩm định “sáng kiến” về luật biểu tình của ông Dũng mang hình thù ra sao? Cấm chỗ nào, mở chỗ nào và cần bao nhiêu chữ ký của cơ quan này, ban nghành kia thì người dân mới được tụ tập biểu tình? Nhưng ít ra… có còn hơn không!

 

Người ta hy vọng là dưới ánh sáng của những luồng thông tin ảo và những bức xúc của người dân về các vấn đề xã hội hiện nay, nhà cầm quyền Hà Nội đã không thể nào tiếp tục bóp miệng, cầm chân người dân mà phải chấp nhận một “sân chơi” sòng phẳng, đúng với khẩu hiệu “dân làm chủ”.

 

Thứ nhất, những người soạn dự án Luật biểu tình phải nhìn trên phạm vi quyền công dân, khi hiến pháp thừa nhận người dân có quyền tụ họp và quyền phát biểu ý kiến. Quyền biểu tình phải được coi là một phương tiện của mỗi người dân để chính họ hay nhiều người khác cùng nhau bày tỏ sự đồng ý, ủng hộ hay phê phán các hành động, chính sách của chính quyền hay của những đoàn thể liên hệ đến họ.

 

Thứ hai, phải dẹp bỏ tư duy “xin – cho” trong khi soạn dự án Luật biểu tình. Tuần hành trên đường phố hay tụ họp mít tinh ở nơi công cộng, nếu có xin phép là ở dạng thông báo cho cơ quan công lực biết mà đến giữ trật tự nơi công cộng, hoàn toàn không có quyền cấm hay cho phép biểu tình. Nói cách khác, khi biểu tình được hiến pháp quy định là quyền thì không cần phải xin phép mà chỉ cần đăng ký hay thông báo cho cơ quan chức năng là đủ. Những cơ quan này không có quyền hạch sách về mục tiêu, động lực của người đứng ra tổ chức hay tham gia.

 

Thứ ba, phải dẹp bỏ lối suy nghĩ biểu tình là “gây khó khăn cho công tác quản lý xã hội” khi soạn dự án Luật biểu tình. Quản lý an toàn và an ninh xã hội là nhiệm vụ của nhân viên nhà nước, biểu tình bày tỏ sự ủng hộ hay phản đối các chính sách của nhà nước là việc làm của người dân. Hai yếu tố này không đối nghịch nhau mà bổ túc nhau để vừa bảo đảm quyền công dân, vừa bảo vệ trật tự xã hội chứ không để bảo vệ quyền lực của chế độ.

 

Thứ tư, không nên núp sau cái gọi là “thế lực thù địch lợi dụng chống phá chế độ” để từ đó đưa ra hàng loạt những quy định về chính trị, văn hóa, đối ngoại, kinh tế… nhằm ngăn cản những cuộc biểu tình bày tỏ ý kiến ôn hòa của người dân. Chính những quy định này, vô hình chung, chế độ đã tự đẩy người dân và chính họ vào hai lằn ranh đối nghịch. Một chính quyền vì dân và do dân thật sự thì không bao giờ lo sợ những thế lực thù địch lợi dụng người dân để lật đổ những người lãnh đạo mà dân chúng kính trọng. Chỉ có những lãnh đạo tham nhũng, bất tài, tham quyền cố vị mới lo sợ sức phản kháng của người dân và tìm cách trù dập. Đó chính là nguyên nhân tạo ra thế lực thù địch.

 

Thứ năm, ông Nguyễn Tấn Dũng và Bộ công an cộng sản Việt Nam phải hiểu cho thật rõ lý do soạn ra Luật biểu tình để làm gì? Nếu vì biểu tình là xu thế bắt buộc không thể cưỡng lại của tình hình – qua 11 cuộc biểu tình vừa rồi – mà ông Dũng phải thể chế hóa bằng luật để dễ bề trấn áp thì Bộ chính trị cộng sản nên ra lệnh ngưng dự án luật này như đã từng ngưng dự án luật về quyền lập Hội hay quyền tiếp cận thông tin. Lý do dễ hiểu là dù có ban hành Luật biểu tình cũng chỉ là hành động khỏa lấp.

 

Cách nay non 4 năm, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và cô Phan Thanh Nghiên đã làm một lá đơn “xin đi biểu tình” với mục đích ghi rõ ràng là bày tỏ lòng yêu nước đối với sự xâm lấn của Trung Quốc. Lá đơn của hai người đã không được nhà cầm quyền Hà Nội trả lời và nay hai người đang bị ở tù vì liên hệ đến việc treo biểu ngữ kêu gọi bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa, dưới tội danh “tuyên truyền chống phá nhà nước”.

 

Do đó, nếu ông Dũng và lãnh đạo Hà Nội thật sự coi biểu tình là một quyền chính đáng cần có một đạo luật thì hãy mời Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và cô Phan Thanh Nghiên ra điều trần tại quốc hội về những quan điểm của họ, ít ra giúp cho đạo luật này có những nội dung đáp ứng lòng của người dân trong tình hình hiện nay nhiều hơn.

 

Trung Điền
Ngày 29/9/2011

 

.

.

.

NGUYỄN KHẢI & BẢN CHÚC THƯ CHÍNH LUẬN (Đỗ Xuân Tê)

Tháng Chín 30, 2011

 

Nguyễn Khải & Bản Chúc Thư Chính Luận

Đỗ Xuân Tê

09/30/2011

http://www.vietbao.com/D_1-2_2-67_4-180794_15-2/

 

Như một hiện tượng lạ trong giới văn học khi nhà văn Nguyễn Khải một thời được coi như mũi xung kích của Đảng trên lãnh vực viết văn, viết báo, nhưng vào lúc cuối đời lại chia tay với quá khứ, cảnh tỉnh tư duy, tự chối bỏ mình qua môt bản chúc thư chính luận mang tựa đề, “Đi tìm cái tôi đã mất”.
Đến nay, ba năm sau ngày ông mất, thiên hạ vẫn nhắc nhiều về bài viết cuối cùng của ông, được đánh giá như một văn bản sắc sảo, trung thực của một người cầm bút muốn gởi gấm cho các người cùng thời và những thế hệ đi sau những cảm nhận về tính phi nhân bản của một chế độ chính tri mà khi sinh thời tác giả không đủ can đảm để bày tỏ, chối bỏ hoặc lên án, như một đồng nghiệp đã nhận xét, ‘đây là bài viết đầu tiên và cũng là bài cuối cùng Nguyễn Khải nói thật’(NQL).
Dù đã có nhiều người viết về Nguyễn Khải, nhưng cứ đọc báo khi có những vấn đề thời cuộc nóng bỏng tôi lại hay nhớ đến ông, nên cũng muốn viết vài điều trong cách nhìn của một người tuy không cùng chiến tuyến lúc ông sinh thời, nhưng có đặt cảm tính nặng phần trân trọng tác giả của bản chúc thư đi-tìm-cái-tôi-đã-mất.
Nguyễn Khải hình như sinh ra để viết văn, do thời cuộc đưa đẩy ông lại kiêm luôn nhà báo.Không hiểu nhờ văn hay nhờ báo mà ông là cây viết được nhiều người chú ý. Phải nói trước thời kỳ mở cửa, người ta đọc nhiều tác phẩm và bài viết của ông. Ông là một cây viết xông xáo hay đi về cơ sở, chủ yếu là nông thôn miền Bắc, sau này là đồng bằng sông Cửu Long để viết những mảng đề tài khá gần gũi với thực tế cuộc sống. Tuy dấu vết của nền văn chương minh họa vẫn đậm nét trong cốt truyện và văn phong của Nguyễn Khải, nhưng cách nhìn con người và sự việc cùng lối phân tích mối xung đột hữu quan của các mẫu nhân vật trong truyện hay ngoài đời đã tạo cho ông thành cây bút được kính nể.
Ông hay đi, người ta bảo chắc ông tuổi con ngựa, đi đến đâu đều được lãnh đạo địa phương trân trọng và dân tình xem chừng ưu ái đặt nhiều kỳ vọng ở ông nhà văn, nhà báo gốc quan này (NK có quân hàm đại tá khi về hưu). Đối với Đảng và lãnh đạo các cơ quan văn hóa tư tưởng họ hài lòng về ông, hay xử dụng ông như mũi xung kích cho việc quảng bá phát động các kế hoạch, cách nhìn, lối làm ăn trong từng giai đoạn của quá trình xây dựng XHCN ở miền Bắc, trong đó hai tác phẩm Mùa LạcXung Đột mà tôi có dịp đọc và làm quen cũng là những cuốn sách được Cục trại giam chọn lọc để đặt trong mấy cái rương sách cũ dành cho các tù hình sự trong các trại giam miền Bắc. Rồi sau này qua những buổi đọc báo Tổ hàng đêm, các bài ký sự về cuộc sống đồng bằng sông Cửu của Nguyễn Khải dù tiếng mất tiếng còn (do ù tai mệt sức vì lao động lúc ban ngày) nhưng cũng đọng lại trong chúng tôi một cái gì đó hơn là bị tra tấn bởi những bài xã luận vô hồn của nhà báo Thành Tín, người gác cổng trung thành của báo Nhân Dân.
Sau ngày thống nhất Nguyễn Khải giã từ Hà Nội, chuyển hẳn hô khẩu vào thành phố tên Bác, cũng là biểu hiện lối sống thực dụng của ông khi tìm nơi đất lành chim đậu, xa nơi đô hội vốn dĩ có nhiều đấu đá bon chen. Nói vậy không phải ông không nhớ miền quê đất Bắc, bài viết cuối cùng trên báo mà tôi được đọc ông đã viết về người Hà-nội xưa, thầm nhắc nhớ những ký ức của một thời Tràng An thanh lịch, của một thuởThăng Long hào khí với những mẫu người và nét văn hóa khác xa hà-nội ngày nay.

 

Trước khi về cõi ông được trao giải thưởng cao nhất về văn học nghệ thuật mang tên HCM, khi nằm xuống được chôn trong nghĩa trang dành cho các đảng viên lão thành trên 60 tuổi đảng, thực ra ông chưa đủ số thâm niên, nhưng ông Võ văn Kiệt thấy tội nên ‘nhường xuất’ của mình cho đồng chí nhà văn nhà báo đã có nhiều cống hiến cho thành phố. Nhìn chung ông đạt vận may trong đời nghiệp vụ, với trung ương trong ngành trong ban ông chuyên ngồi chiếu trên, chí ít cũng ủy viên BCH hội nhà văn nhà báo, rồi quân hàm, huân chương, phần thưởng cứ ai có là ông có, kể cà những người công lao hơn ộng chưa có mà ông đã có, chính vậy mà theo thói ghen tị đời thường cũng có tiếng bấc tiếng chì trong các bạn đồng ngành đồng nghiệp của ông.
Mấy lúc gần đây khi đọc báo trong nước và ngoài nước, người đọc cũng có những ưu tư trăn trở khi thấy các phong trào tự phát của quần chúng muốn biểu lộ nỗi bức xúc của mình về những vấn đề thời cuộc nóng bỏng, trong đó có cái lối chơi cha của người láng giềng Trung quốc liên quan đến chủ quyền Biển Đông. Tiếc thay, cái ‘quần chúng’ mà nhà nuớc lúc nào cũng dành quyền đòi bảo vệ và tôn trọng lại bị chối bỏ và vùi dập không khoan nhượng bởi các lực lượng giữ gìn an ninh thủ đô. Tôi lại nhớ Nguyễn Khải lúc cuối đời khá nhạy cảm về điểm này khi ông đặt bút, “Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lãnh đạo của một Đảng theo học thuyết Mác-Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng. Sức mạnh của quần chúng có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử và số phận của nhiều cá nhân. Nhưng cũng thật trớ trêu, không có một chế độ cộng hòa nào ở thế kỷ 20 lại dám coi thường quần chúng như tại các nước Xã Hội Chủ Nghĩa.”.

Ai có thể ngờ những lời than thở cuối đời như trên lại có thể phát ra từ tùy bút chính luận của một người suốt đời sống và phục vụ hết mình cho Đảng? Để qua một bên khi có người hỏi tại sao không dám công khai khi còn sống mà lại chờ sau khi chết mới phổ biến dưới dạng kiểu như chúc thư, điều này cũng dễ hiểu nếu ta đặt mình vào hoàn cảnh của Nguyễn Khải khi thân phận nào muốn tồn tại đều phải trải qua những cơn hèn, dù cho người ấy có là… võ tướng. Riêng tôi không hề giấu diếm niềm khâm phục sau khi đọc những gởi gấm tâm huyết của ông dù có muộn còn hơn không.

 

Càng đọc bản chúc thư chính luận càng thấy ông khát khao muốn đề cập đến những điều nên viết mà chưa dám viết, những điều nên nói mà chưa dám nói, những điều dám nghĩ mà chưa dám làm, đấy mới chính là di sản văn học của con người Nguyễn Khải, một nhà văn nhà báo mà cái ‘tôi’ đi tìm chỉ đáng viết thường khi còn sinh thời, nhưng thực sự cái ‘Tôi’ tìm được đáng được viết hoa khi thân xác đã đi vào yên nghỉ.

ĐỖ XUÂN TÊ

 

——————————

 

Đi tìm cái tôi đã mất

(Tùy bút chính trị – 2006)
Nguyễn Khải

http://viet-studies.info/NguyenKhai_DiTimCaiToiDaMat.htm

 

.

.

.